Hiển thị các bài đăng có nhãn CÂY TRỒNG CHO THU NHẬP CAO. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn CÂY TRỒNG CHO THU NHẬP CAO. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2019

NÔNG DÂN LẠNG SƠN PHẤN KHỞI VÌ ĐƯỢC MÙA ỚT

20:34 0

Anh Vi Văn Năng ở thôn Pắc Pù (xã Bắc Thủy, huyện Chi Lăng) phấn khởi cho biết, năm nay, gia đình trồng ba sào ớt, từ đầu tháng 5, gia đình đã thu hoạch, giá ớt đầu vụ tư thương trả tại ruộng 90.000 đồng/kg. Mỗi ngày, gia đình hái được 40kg ớt, hái đến đâu bán hết ngay. Cây ớt sau khi trồng hơn hai tháng sẽ cho thu hoạch liên tục từ 2 - 3 tháng. Nếu giá ớt ổn định như hiện nay, trồng ớt sẽ cho thu nhập hơn 30 triệu đồng/sào/vụ.
Cùng ở thôn Pác Pù, anh Hoàng Văn Nhỏ, thương lái thu mua ớt cho bà con nhiều năm nay, cho biết, trung bình mỗi ngày, anh thu mua hơn hai tấn ớt. Giá ớt năm nay cũng cao hơn hẳn những năm trước là do thị trường Trung Quốc đang tiêu thụ mạnh, hơn nữa vì năm ngoái giá ớt quá thấp nên năm nay không có nhiều người trồng ớt, sản lượng ít mà nhu cầu tăng nên giá cũng tăng theo. Hiện mới vào đầu vụ thu hái ớt, giá ớt lại cao nên bà con rất phấn khởi.
Phó Bí thư Đảng ủy xã Nhân Lý (huyện Chi Lăng), Vi Văn Lê, phấn khởi, mấy năm trước, cả xã chỉ có vài hộ trồng ớt nhưng đến năm 2015, diện tích trồng ớt toàn xã đã lên đến 20ha và năm nay tăng lên 50ha. Hầu hết các hộ dân trong xã đều đã trồng ớt, hộ trồng ít nhất cũng từ một sào đến ba sào ớt... Tuy nhiên, do giá ớt hằng năm tăng thất thường nên người nông dân chưa mặn mà mở rộng diện tích trồng ớt. Nếu giá cả ổn định, diện tích trồng ớt sẽ còn tăng mạnh.
Bà Nông Thị Hang, thôn Than Muội (xã Quang Lang, huyện Chi Lăng) vui vẻ, vụ ớt năm nay, gia đình trồng bảy sào ớt xuất khẩu. Từ đầu vụ đến nay, gia đình thu hoạch, bán được hơn 5 tạ quả với giá từng loại và từng thời điểm dao động từ 50.000 đồng đến 70.000 đồng/kg, ớt chọn loại đẹp nhất có thể được giá 80.000 đồng/kg. Giá ớt năm nay cao hơn ba lần so năm ngoái, nên mới chỉ hơn 10 ngày đầu vụ, gia đình đã thu nhập bằng cả vụ ớt năm trước, so trồng lúa và các loại rau màu khác, cây ớt đem lại thu nhập cao hơn nhiều cho người dân.
Chủ tịch Hội Nông dân xã Quang Lang, Nguyễn Văn Thật, cho biết, ớt là loại cây không đòi hỏi quá nhiều công chăm sóc và phân bón, hơn nữa cho thu hoạch kéo dài trong hai tháng với giá trị kinh tế khá cao nên nhiều hộ kiên trì với cây ớt đã có thu nhập khá. Hơn nữa, người dân biết áp dụng khoa học kỹ thuật vào trồng và chăm sóc ớt nên cây cho quả đều, đẹp, dễ bán hơn. Vụ ớt năm nay, diện tích ớt toàn xã đạt hơn 47ha, hiện đang vào lúc ớt chín rộ nên bà con khẩn trương thu hoạch.
Vụ ớt năm nay, toàn huyện Chi Lăng trồng được 323ha, tăng 14ha so năm 2018. Người dân cũng trồng nhiều giống ớt để đáp ứng nhu cầu thị trường, như: ớt chia tai, ớt tân nông, ớt chỉ thiên, ớt kim, ớt đồng tiền vàng. Diện tích trồng tăng nên mặc dù năng suất vẫn như năm trước (hơn 113 tạ/ha) nhưng sản lượng tăng khá, cộng với được giá nên vụ ớt năm nay hứa hẹn đưa về nguồn thu lớn cho người dân.
Phó Trưởng phòng NN-PTNT huyện Chi Lăng, Vi Văn Tuấn cho biết, trên địa bàn huyện Chi Lăng đã hình thành vùng chuyên canh cây ớt theo hướng sản xuất hàng hóa. Bà con nhân dân đã chủ động áp dụng khoa học kỹ thuật vào trồng và chăm sóc. Để người dân yên tâm phát triển cây ớt, Phòng tham mưu cho UBND huyện rà soát, liên hệ các doanh nghiệp uy tín thường xuyên thu mua ớt xuất khẩu trên địa bàn để lựa chọn, vận động thực hiện ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm cho người dân. Đồng thời, Phòng chủ động quảng bá, giới thiệu tiềm năng về cây ớt của huyện đến những doanh nghiệp chế biến thực phẩm, kinh doanh xuất nhập khẩu lớn trên toàn quốc để tìm kiếm, mở rộng thị trường.
Cũng như huyện Chi Lăng, bà con nông dân ở các xã Gia Cát, Tân Liên... của huyện Cao Lộc cũng đang tranh thủ những ngày nắng nóng để thu hoạch ớt.
Anh Dương Ngọc Tùng, ở thôn Hợp Tân (xã Gia Cát) cho biết, năm nay gia đình trồng hơn hai sào ớt, hai sào cà chua nay đang bước vào thu hoạch. Giá ớt năm nay khá cao so mọi năm nên bà con rất phấn khởi. Mỗi ngày gia đình hái được 40kg ớt, bán với giá 70.000 đồng/kg, hái đến đâu đều có tư thương thu mua đem bán sang biên giới.
Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh, Lý Việt Hưng, cho biết, đến nay diện tích trồng ớt trên địa bàn tỉnh gia động từ 800 đến hơn 1.200ha, tập trung chủ yếu ở các huyện: Chi Lăng, Cao Lộc, Lộc Bình... Các giống ớt truyền thống trước đây đã được thay bằng giống ớt cao sản, năng suất bình quân đạt khoảng 300 đến 500kg/sào. Nhiều hộ nông dân những năm qua đã tập trung trồng ớt, đưa ớt trở thành cây chủ lực trong vụ sản xuất đông xuân. Cây ớt đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần xóa đói, giảm nghèo ở các vùng nông thôn.

Thứ Ba, 22 tháng 1, 2019

KỸ THUẬT TRỒNG CÀ CHUA CHO NĂNG XUẤT CAO

18:46 1


GIỐNG CÀ CHUA:  1.1. Các giống cà chua phổ biến ở miền Bắc Cà chua dây Đông Anh, cà chua múi, các giống cà chua Ba Lan xanh, Ba Lan trắng, Hồng Lan, HP5, P375, CV12, cà chua 95, cà chua lai,… 1.2. Các giống cà chua phổ biến ở cả 2 miền Bắc - Nam Giống cà chua lai TN30, TN 24, TN 19, Red Crown 250, giống cà chua MV1.
Hiện nay Nông dân đang tập trung trồng nhiều 2 giống cà chua: Tre việt số 1 và giống cà chua Nun 2258 F1. đây là 2 giống cà chua cho năng xuất cao, ổn định và chống chịu với thời tiết rất tốt đặc biệt là vụ sớm tháng 7 dương lịch.
 Để biết thêm chi tiết về 2 giống cà chua này, bà con nông dân có thể liên hệ theo số điện thoại 035-489-4896 hoặc 038-394-6689.

THỜI VỤ TRỒNG:  Cây cà chua có thể sinh trưởng, phát triển tốt trong vụ Đông ở vùng đồng bằng, Trung du Bắc Bộ. Ở các tỉnh miền núi phía Bắc, có thể gieo trồng từ tháng 9, tháng 10, kết thúc thời vụ trước tháng 12 dl. Ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ và vùng Trung du Bắc Bộ, vụ cực sớm gieo vào cuối tháng 6 dl. Vụ sớm gieo vào tháng 7-8 dl. Gieo trồng trong vụ sớm phải làm luống cao, tiêu nước tốt, che cho vườn ươm. Đặc biệt lưu ý trồng giống chịu nóng ẩm như giống MV1 thường được lên luống để trồng. Chính vụ gieo vào tháng 9, giữa tháng 10, thu hoạch vào tháng 1-2 dl. Vụ này có năng suất cao nên được gọi là vụ thuận. Vụ muộn gieo trồng cuối tháng 10-11 dl, thu hoạch tháng 3-4 dl là lúc thị trường khan hiếm cà chua. Thời vụ cà chua Xuân - Hè gieo giữa tháng 1, trồng cuối tháng 2, đầu tháng 3, thu hoạch vào cuối tháng 5-6 dl, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng vào những ngày nắng, nóng. Mùa mưa gieo hạt tháng 6- 7, thu hoạch tháng 8 – 9 dl. Đây là vụ nghịch cà chua

ĐẤT VÀ PHÂN BÓN:  Để cà chua đạt năng xuất cao. Đất trồng cà chua phải có thời gian để ải, thời gian ải tuỳ theo mùa vụ. Đất phải sạch cỏ dại, tơi xốp. Trồng 1 hàng không nên làm giàn, tạo hình, chiều rộng luống từ 0,7-0,8m. Trồng 2 hàng cần làm giàn, tạo hình, chiều rộng luống khoảng 1,2m. Chiều cao luống từ 0,2-0,3m tuỳ theo mùa vụ trồng
Phân bón (ha): + Phân hữu cơ hoai mục 15-20 tấn, thâm canh bón 30-40 tấn. + Phân vô cơ thương phẩm số lượng được quy đổi từ nguyên chất, đảm bảo bón cho 1 ha gieo trồng như sau: Khối lượng N nguyên chất, từ 90-120 kg. Khối lượng P2O5 từ 60-90 kg. Khối lượng K2O5 từ 100-120 kg. Phương pháp bón: Bót lót toàn bộ phân chuồng + lượng phân lân + 1/2 lượng phân Kali trộn đều trong đất bón vào hốc sâu 15-20 cm trước khi trồng. + Thúc lần 1 (khi cây bén rễ): 1/3 lượng phân đạm. + Thúc lần 2 (cây ra hoa): 1/3 lượng phân đạm + 1/2 lượng Kali. + Thúc lần 3 (cây đậu quả): 1/3 lượng phân đạm.

CÂY GIỐNG, VƯỜN ƯƠM:  Cây giống cà chua tốt có chiều cao trung bình 18-20 cm, số lá từ 5-6 (khoảng 25-30 ngày sau khi gieo ở vườn ươm), thân và gốc cây mập, màu tím nhạt, có một lớp lông tơ mềm, không có sâu bệnh hại. 1 m2 vườn ươm gieo từ 2,5-3 g hạt, mật độ sau khi tỉa cành khoảng 800-900 cây. Nếu trồng với mật độ 1.000-1.200 cây/sào Bắc Bộ (360m2 ), cần khoảng 150-200 gr hạt (khoảng 27.750-33.350 cây/ha, cần 4,5-5,4 kg hạt). Tuổi cây trồng vụ Đông 25-30 ngày, trong vụ Xuân Hè cần 35-40 ngày. Phải phòng trừ kịp thời sâu bệnh hại cây con ngay trong vườn ươm. Tỉa bỏ những cây xấu, yếu ớt. Tỉa cây 2 đợt: lúc 2 và 4 lá thật. Khoảng cách cây sau khi tỉa 10-15 cm. Không bón phân cho cây trong vườn ươm để rèn luyện cây giống, tưới ít nước (đảm bảo độ ẩm đất 60%). Trước khi nhổ để trồng từ 7-10 ngày không tưới nước, nhưng trước lúc nhổ 4-5 giờ tưới đẫm nước để nhổ, tránh đứt rễ. Hình 6: (A) Chọn cây làm gốc ghép tốt; (B) Ghép cây con.

MẬT ĐỘ VÀ KHOẢNG CÁCH: Trong mùa mưa hoặc đối với giống cà chua sinh trưởng vô hạn, cành lá xum xuê thì lên luống trồng 1 hàng, khoảng cách hàng 0,8m, cách cây trên hàng 0,5 m, mật độ 2,5 vạn cây/ha. Những giống sinh trưởng vô hạn, cành lá xum xuê phải trồng thưa hơn những giống sinh trưởng hữu hạn. Các giống có độ cao trung bình, cành lá sinh trưởng trung bình, thuộc loại sinh trưởng bán hữu hạn hoặc trồng trong mùa khô thì trồng 2 hàng trên luống, khoảng cách hàng từ 0,65- 0,7m, khoảng cách cây 0,4- 0,45m, mật độ 3,5 vạn cây/ha. 5 Nói chung, khoảng cách trồng cà chua: Cách hàng 70-80 cm x cách cây 30-40 cm.

SỬ DỤNG MÀNG PHỦ NÔNG NGHIỆP
Mục đích:  
Hạn chế côn trùng và bệnh hại: Mặt màu bạc của màng phủ phản chiếu ánh sáng mặt trời nên giảm bù lạch, rầy mềm, giảm bệnh do nấm tấn công ở gốc thân và đốm trên lá chân 
Ngăn ngừa cỏ dại: Mặt đen của màng phủ ngăn cản ánh sáng mặt trời, làm hạt cỏ bị chết trong màng phủ. 
Điều hoà độ ẩm và giữ cấu trúc mặt đất: Màng phủ ngăn cản sự bốc hơi nước trong mùa nắng, hạn chế lượng nước mưa nên rễ cây không bị úng nước, giữ độ ẩm ổn định và mặt đất tơi xốp, thúc đẩy rễ phát triển, tăng sản lượng. 
Giữ phân bón: Giảm rửa trôi của phân bón khi tưới nước hoặc mưa to, ít bay hơi nên tiết kiệm phân. 
Tăng nhiệt độ đất: Giữ ấm mặt đất vào ban đêm (mùa lạnh) hoặc thời điểm mưa dầm thiếu nắng mặt đất bị lạnh. 
Hạn chế độ phèn, mặn: Màng phủ làm giảm sự bốc hơi qua mặt đất nên phèn, mặn được giữ ở tầng đất sâu, giúp bộ rễ hoạt động tốt hơn.
Cách sử dụng màng phủ nông nghiệp 
- Vật liệu và qui cách: Dùng 2 cuồn màng phủ khổ rộng 0.9-1m trồng cà chua hàng đơn, còn hàng đôi 1,5 cuồn màng khổ 1,2-1,4 m, diện tích vải phủ càng rộng thì hiệu quả phòng trừ sâu bệnh càng cao. Chiều dài mỗi cuồn màng phủ là 400 m, khi phủ liếp mặt xám bạc hướng lên, màu đen hướng xuống. 
- Lên liếp: Lên liếp cao 20-40 cm tùy mùa vụ, mặt liếp phải làm bằng phẳng không được lồi lõm vì rễ khó phát triển và màng phủ mau hư, ở giữa liếp hơi cao hai bên thấp để tiện việc tưới nước. 
- Rãi phân lót: Liều lượng cụ thể hướng dẫn bên dưới, nên bón lót lượng phân nhiều hơn trồng phủ rơm vì màng phủ hạn chế mất phân và không bị cỏ dại canh tranh. Có thể giảm 20% lượng phân so với không dùng màng phủ. 
- Xử lý mầm bệnh: Phun thuốc trừ nấm bệnh Metalaxyl đều trên mặt liếp trước khi đậy màng phủ. 
- Đậy màng phủ: Mùa khô nên tưới nước ngay hàng trồng cây trước khi đậy màng phủ. Khi phủ kéo căng vải bạt, hai bên mép ngoài được cố định bằng cách dùng dây chì bẻ hình chữ U mỗi cạnh khoảng 10 cm ghim sâu xuống đất (dây chì sử dụng được nhiều năm) hoặc dùng tre chẻ lạc ghim mé liếp

VUN XỚI - TƯỚI NƯỚC 9.1. Xới vun Xới vun: 2-3 lần. Sau khi cây hồi xanh xới 1 lần. Sau trồng 25-30 ngày xới lần 2 kết hợp vun đất vào gốc cho cây đứng vững. Sau trồng 35-40 ngày, trước khi làm giàn, dùng cuốc nạo vét đất ở rãnh, vun cao vào gốc cây. Sau khi làm giàn thì không xới nữa, diệt cỏ dại bằng dầm kết hợp với nhổ cỏ bằng tay. 9.2. Tưới nước Hàng ngày tưới 1-2 lần, tuỳ thuộc theo độ ẩm của đất và điều kiện thời tiết. Trước khi cây hồi xanh thì tưới bằng gáo, cách gốc 7-10 cm. Khi cây bắt đầu sinh trưởng mạnh thì tưới rãnh có hiệu quả nhất. Khoảng cách giữa 2 lần tưới từ 7-10 ngày. Khi tưới đưa nước vào rãnh ngập 1/2 độ cao luống, nước thấm đều thì tháo cạn. Độ ẩm đất 70-80% là thích hợp cho cà chua sinh trưởng, phát triển. Các thời kỳ phân hoá hoa, ra nụ hoa và thời kỳ có quả không được thiếu nước. Hình 10: (A) Vun gốc cho cà; (B) Tưới nước cho ruộng cà chua.

LÀM GIÀN, TỈA CÀNH, TẠO HÌNH:  Những giống cà chua sinh trưởng vô hạn và sinh trưởng bán hữu hạn, cây cao, thân lá sinh trưởng mạnh, có nhiều nhánh. Vì vậy, nhất thiết phải làm giàn, tỉa cành, tạo hình. ü Sau khi trồng 35-40 ngày, phải tiến hành làm giàn sớm và kịp thời. Nguyên liệu làm giàn thường là trúc, nứa tép, cây điền thanh, cây đay giống. Có điều kiện thì làm giàn cọc bằng chất dẻo buộc dây nilon. Ở miền Bắc thường làm giàn chữ A. ü Cây cà chua mỗi nách đều có chồi nách và đều có khả năng phát triển cành lá, ra hoa và đậu quả. Những cành ở gần chùm hoa thứ nhất, đặc biệt ở vị trí cành 8 ngay dưới chùm hoa cho sản lượng tương đương so với cành ở thân chính. Vì vậy khi tỉa cành cần lưu giữ thân chính và 1 thân phụ dưới chùm hoa thứ nhất. ü Số chùm hoa trên thân chính đối với giống thuộc loại hình sinh trưởng vô hạn rất nhiều từ 12-20 chùm. Những chùm hoa ra sau thường không đậu quả hoặc quả nhỏ, không đạt tiêu chuẩn thương phẩm, chỉ nên để 7-9 chùm hoa. Số quả trên mỗi chùm hoa thường đạt 3-4 quả. Nên tỉa bỏ những quả không phát triển bình thường, dị hình, quả nhỏ không đạt yêu cầu thương phẩm. ü Chồi nách sinh trưởng rất mạnh vào mùa mưa, ẩm độ không khí cao, cần tỉa bỏ kịp thời, 2-3 ngày bẻ chồi 1 lần. Công việc này thực hiện cho đến khi cây già. Mùa khô lạnh 5-7 ngày cần tỉa bỏ chồi 1 lần.

 THU HOẠCH Các thời kỳ chuyển hoá giai đoạn chín của cà chua như sau:
- Thời kỳ quả xanh: Quả và hạt phát triển chưa hoàn thiện. Nếu thu hái quả vào lúc này và thông qua thúc chín tới thì quả không bình thường, không có hương vị, không có màu sắc đặc trưng của giống. - Thời kỳ chín xanh chất keo bao quanh hạt được hình thành, quả chưa có màu hồng hoặc màu vàng. Nếu thúc chín thì quả sẽ thể hiện màu sắc của giống.
- Thời kỳ chín vàng: Đỉnh quả xuất hiện màu vàng hoặc màu hồng với diện tích bề mặt chiếm khoảng 10%. - Thời kỳ chuyển màu: Diện tích bề mặt 10-30%, có màu vàng hoặc đỏ.
- Thời kỳ quả chín hồng diện tích bề mặt 30-60%, có màu đỏ nhạt hoặc vàng.
- Thời kỳ chín đỏ, diện tích bề mặt quả 90% có màu đỏ. Từ khi chín xanh đến chín đỏ kéo dài khoảng 10-12 ngày.
 Khi thu hái quả, tránh va đập vì quả dập sẽ là môi trường thuận lợi cho nấm bệnh phát triển. Cần duy trì độ ẩm không khí trong bảo quản từ 85-90% để tránh hiện tượng quả héo. Người ta cho cà chua tiếp xúc với Ethylene 12-18 giờ ở nhiệt độ 200C, thời gian chín có thể giảm 1/2 so với cà chua chín bình thường.

Thứ Hai, 6 tháng 8, 2018

Ớt chỉ thiên, Giống ớt tốt nhất dành cho nhà nông chuyên nghiệp( ...

02:09 0
Hạt giống an phú xin trân trọng giới thiệu tới bà con nông dân video quay trực tiếp giống ớt chỉ thiên Nun 2074 được sản xuất thử nghiệp tại india. 
Mọi chi tiết xin liên hệ với: nhân viên kỹ thuật: ĐT 01654894896 ...




Thứ Tư, 1 tháng 8, 2018

Khởi nghiệp từ mô hình trồng ớt chỉ thiên Nun 2074 ( Phần 1)

00:07 0

1. Làm giàu không khó - Đúng hay sai


Đây là câu nói hoàn toàn đúng nếu bạn thực sự có niềm đam mê,  Tuy nhiên đam mê phải gắn liền với kiến thức và kỹ năng, nhưng xét cho cùng nếu bạn không có đam mê, bạn sẽ không có động lực để tìm hiếu, từ việc bạn không muốn đi sâu vào tìm tòi và khám phá, bạn sẽ không có được những kinh nghiệm và những kỹ năng cần thiết. Nếu bạn không có kinh nghiệm và kỹ năng hoặc kinh nghiệm và kỹ năng ở mức độ nửa vời thì bạn vẫn là kẻ thất bại trong công việc, Chính vì vậy trước khi muốn bắt đầu một công việc, bạn muốn gặt hái được nhiều thành công, bạn phải có đam mê, đam mê sẽ cuốn hút bạn, trở thành động lực lớn để bạn khám phá và làm được điều mình muốn, Trong tất cả các lĩnh vực ngành nghề chỉ cần bạn thực sự muốn bạn đều có thể làm giàu một cách dễ dàng.

2. Kinh nghiệm làm giàu của nhà nông chuyên nghiệp;

Chắc chắn trong cuộc đời bạn cũng đã từng đặt ra rất nhiều những câu hỏi; Tại sao. tại sao và tại sao? Tại sao mình cũng là nông dân,  người khác cũng là nông dân. Tại sao họ làm ăn gặp nhiều may mắn, còn mình làm ăn gặp nhiều thất bại, tại sao họ thu hoạch luôn vào những thời điểm được giá, còn mình thu hoạch luôn vào những thời điểm giá rẻ ?
Vâng câu trả lời chính là. Những người làm nông chuyên nghiệp họ luôn để ý đến thị trường, Họ biết nắm bắt thị trường, khi nào thị trường khan hiếm và khi nào thị trường dư thừa, Thời điểm chính vụ, thời tiết thuận lợi, Nhà nhà trồng cà chua chắc chắn thời điểm bán sẽ rẻ, Người chuyên nghiệp họ biết trồng sớm hơn hoặc muộn hơn thời vụ để ăn chênh lệch giá, Và họ thắng lợi. Công thức đơn giản nhưng bao nhiêu người nắm rõ lịch thời vụ để trồng cây. Chắc chắn chỉ có những người ham học hỏi, tìm kiếm tài liệu thông tin và cập nhật thông tin thường xuyên trên internet thì mới nắm được, số còn lại, do đất manh mún, Làm theo hiệu ứng số đông, thiếu hiểu biết và đôi khi tự phát dẫn đến việc, Không làm thì lười, làm rồi đến khi thu hoạch không biết bán cho ai. Kiếp nghèo vẫn muôn đời đeo bám 

3. Khởi nghiệp bắt đầu từ đồng ruộng.

Nhiều thanh niên hiện nay đặt câu hỏi: Có thể bắt đầu khởi nghiệp từ nông nghiệp được không ? 
Tại sao họ lại hỏi như vậy. Đơn giản họ nhìn thấy rất nhiều rủi ro trong sản xuất nông nghiệp và yếu tố đầu tiên đó chính là thiên tai. Nếu canh tác theo kiểu truyền thồng. Khi gặp mưa bão chắc chắn sẽ có nhiều rủi ro, nếu canh tác theo kiểu hiện đại xây dựng hệ thống nhà kính nhà lưới đòi hỏi một số vốn lớn, sinh viên mới ra trường vấn đề về vốn là một khâu khó giải quyết nhất, vì vậy muốn khởi nghiệp từ nông nghiệp không phải là chuyện dễ dàng. Đòi hỏi bạn phải tư duy nghiên cứu. Trồng cây gì và nuôi con gì thích hợp với khí hậu, thời vụ, và có thu nhập cao. Đòi hỏi bạn phải tập trung suy nghĩ, Kinh nghiệm kết hợp với đam mê thì mới có thể thành công

4. Nhà nông làm giàu từ trồng ớt.

Mô hình trồng ớt cho đến hôm nay, nó không còn xa lạ với nhiều hộ nông dân, Nhưng cây ớt lại là cây có tiềm năng tiêu thụ rất lớn, cả trong và ngoài nước.
các giống ớt được trồng chủ yếu hiện nay là giống ớt chỉ thiên Nun 2074, Gagan F1, Macx Up 300. Đây là những giống ớt vượt trội và có khả năng chống chịu với thời tiết khắc nghiệt rất tốt - là những giống ớt cho năng xuất cao nhất so với các giống ớt trên thị trường hiện nay. Năng xuất từ 2- 3 tấn là chuyện bình thường đối với 1 sào bắc bộ. 
Vậy bao nhiêu người trồng ớt đã làm giàu được từ ớt. 
Muốn làm giàu từ cây trồng, bạn bắt buộc phải nghiên cứu về cây trồng, đặc điểm sinh học. Kỹ thuật chăm sóc, bảo quản , thu hoạch và thời điểm gieo trồng. Không bao giờ có chuyện bạn tuỳ hứng, thích thì trồng, và không cần nghiên cứu các yếu tố trên mà có thể làm giàu. Tôi chắc chắn với bạn, cây ớt là cây cho thu nhập rất cao nếu bạn biết lựa chọn đúng thời điểm để trồng. và nếu bạn không nghiên cứu các yếu tố trên bạn chắc chắn sẽ thất bại
Trên đây là đôi điều chia sẻ của tác giả, người đã nhiều năm lăn lộn trên đồng ruộng và nghiên cứu cây trồng. Chúc các bạn thành công.


Thứ Hai, 11 tháng 6, 2018

Hướng dẫn trồng cây Dâu Tây cho năng xuất cao

20:36 2

Phần I. Đặc điểm thực vật học và yêu cầu ngoại cảnh:
1. Đặc điểm thực vật học:
 
Thân: Thuộc loại cây thân thảo, sống đa niên, thân ngắn với nhiều lá mọc rất gần nhau. Chồi nách được mọc từ nách lá, tuỳ vào điều kiện môi trường và đặc tính ra hoa của từng giống, các chồi nách có thể phát triển thành thân nhánh, thân bò hoặc phát hoa.

Lá: Lá có hình dạng, cấu trúc, độ dày và lượng lông tơ thay đổi tùy theo giống. Hầu hết các giống dâu tây đều có lá kép với 3 lá chét, một số giống có lá kép với 4 hoặc 5 lá chét. Mép lá có răng cưa. Cuống lá dài, cuống lá thường có màu trắng khi lá còn non và chuyển sang màu đỏ của đất khi lá già.
Hoa: Phân chia thành nhiều nhánh, mỗi nhánh có một hoa. Hoa có 5 cánh tràng mỏng, màu trắng, hơi tròn. Hoa lưỡng tính, có 25-30 nhị và 50-500 nhụy. Dâu tây là loài giao phấn nhưng thông qua hình thức tự thụ phấn để gia tăng tần suất các gen mong muốn và tạo ra một số loài.
Quả: là một loại quả giả do đế hoa phình to, quả thật nằm ở bên ngoài quả giả. Quả có hình bầu dục, quả non có màu xanh lục, khi quả chín, quả có màu hồng hoặc màu đỏ tuỳ từng giống. Quả Dâu tây có mùi thơm, vị ngọt lẫn vị chua.
Rễ: Hệ thống rễ chùm, rễ phát triển ở độ sâu cách mặt đất khoảng 30cm.
2. Yêu cầu về điều kiện ngoại cảnh:
Nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng và phát triển từ 18-220C. Ánh sáng cần thiết cho cây dâu tây sinh trưởng và phát triển, cường độ ánh sáng mạnh thì mới sinh trưởng mạnh, thiếu ánh sáng thường ảnh hưởng đến khả năng ra hoa kết quả. Độ ẩm cần thiết cho sự phát triển của cây dâu tây trên 84%, ẩm độ không khí cao và mưa kéo dài thường gây bệnh cho cây. Cây dâu tây thích hợp với loại đất thịt nhẹ, hàm lượng chất hữu cơ cao, đất giữ ẩm nhưng thoát nước tốt. Đất có hàm lượng chất hữu cơ cao sẽ giúp cho cây dâu tây phát triển tốt, đạt năng suất cao và kéo dài thời gian thu hoạch quả.
Phần II. Kỹ thuật trồng và chăm sóc:
1. Giống: Hiện nay, tại Lâm Đồng dâu tây sử dụng 2 cơ cấu giống chính là giống ngoài trời: Giống Mỹ đá, Mỹ thơm (Pajero), Langbiang… và giống trong nhà mái che: Giống Newzealand và giống Akihime.
Tiêu chuẩn lựa chọn giống xuất vườn:
Giống
Độ tuổi
(ngày)
Chiều
cao cây (cm)
Đường kính cổ rễ (mm)
Số lá thật
Tình trạng cây
Dâu tây
(cây  nuôi cấy mô)
30-60
3.5-12
1,5-2,5
6-12
Cây khoẻ mạnh, không dị hình, rễ chớm đáy bầu, ngọn phát triển tốt, không có biểu hiện nhiễm sâu bệnh
Dâu tây
(cây từ ngó)
14-17
8-12
1,5-2,5
6-12
Cây khoẻ mạnh, không dị hình, rễ chớm đáy bầu, ngọn phát triển tốt, không có biểu hiện nhiễm sâu bệnh
Giống cây dâu tây hiện nay chủ yếu nhân giống vô tính theo 2 cách:
Cấy mô: Cây con sẽ đạt được tiêu chuẩn tốt, độ đồng điều cao, phát huy ưu điểm của giống, sức sống khỏe, năng suất cao, sạch bệnh.
Tách cây con từ ngó cây mẹ: Phương pháp này dễ làm, chủ động nhưng ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát dục của cây mẹ. Cây con không đạt tiêu chuẩn và sức sống như cây cấy mô. Chỉ nên lấy cây con từ tách ngó cây mẹ dưới 01 năm tuổi thì mới đảm bảo chất lượng giống.
Giống trồng từ ngó: 66% và Giống trồng từ cây mô: 34%
2. Chuẩn bị đất: Chọn đất thịt nhẹ, cao ráo, thoát nước tốt. Cây dâu tây là đối tượng của nhiều loại sâu, bệnh, do đó biện pháp chọn đất, làm đất, xử lý đất phải chú trọng đúng mức để hạn chế nguồn bệnh ban đầu lây lan từ đất.
Vệ sinh đồng ruộng thu dọn tất cả tàn dư cây trồng trước, làm đất xử lý vôi và các loại thuốc sâu, thuốc bệnh.
3. Trồng và chăm sóc:
Luống trồng cao 20-25cm ở vùng đất thấp; 15-20cm ở vùng đất cao.
Trong nhà nylon: Trồng hàng 3 kiểu nanh sấu, luống rãnh 1,2m-1,3m; cây x cây: 35-40 cm, mật độ 40.000-45.000 cây/ha.
Ngoài trời: Trồng hàng 3 kiểu nanh sấu, luống rảnh 1,2m-1,3m, cây x cây: 40-45cm. mật độ 35.000-40.000 cây/ha. Với khí hậu Đà Lạt nếu trồng mật độ dày sẽ dễ phát triển bệnh cây.
Trồng phải đặc cây thẳng với mặt đất, đào lỗ đủ sâu để lấp hết bầu rễ của cây, tránh làm vỡ bầu cây con.
- Ngắt chùm hoa, cắt tỉa ngó: Để cây sinh trưởng mạnh và ổn định trong giai đoạn đầu nên ngắt bỏ chùm hoa bói đầu tiên để tăng cường sinh trưởng và ức chế phát dục.
Trong giai đoạn thu hoạch, để trái lớn đều nên cân đối giữa khả năng phát triển của khung tán và số lượng hoa trái trên cây nếu nụ, hoa, trái ra nhiều cần tỉa bỏ những nụ, hoa, trái dị dạng và sâu bệnh.
Nếu không tận dụng ngó để nhân giống thì nên cắt bỏ toàn bộ ngó.
Giai đoạn đầu khi thân lá cây chưa phủ luống có thể để ngó với khoảng cách 15 cm (5-6 ngó/cây). Để tăng cường sinh trưởng cây ban đầu, hạn chế ngó đâm rễ phụ trên luống.
- Tỉa thân lá: Đảm bảo mật độ phân tán cây dâu cân đối nên để từ 3-4 thân/gốc. Do đặc điểm của giống, chế độ phân bón, thời tiết, chăm sóc khả năng phân tán, ra lá sẽ khác nhau. Tỉa bớt các lá già, sâu bệnh, lá bị che khuất tầng dưới. Chú ý không nên tỉa quá nhiều sẽ mất khả năng quang hợp của cây. Các bộ phận của cây sau khi cắt tỉa cần phải tiêu huỷ ở xa vườn trồng.
- Che phủ đất: Dùng tấm nhựa để che phủ mặt luống trồng dâu. Phương pháp này có các ưu điểm như sau: Giữ ẩm cho luống trồng, gia tăng nhiệt độ cho luống trồng (phủ nhựa đen) phù hợp cho sinh trưởng cây dâu đồng thời hạn chế một số nấm bệnh, cách ly trái tiếp xúc với đất hạn chế bệnh thối trái. Hạn chế cỏ dại và rửa trôi phân bón.
Hiện nay có 3 cách che phủ luống được áp dụng: Dùng nhựa PE (thích hợp cho trồng dâu trong nhà nylon). Dùng cỏ khô, tro trấu. Dùng cỏ khô kết hợp với lưới nylon trắng.
Tuy nhiên việc che phủ đất tại vùng đất thấp thường phát sinh sên nhớt.
Tưới nước: Sử dụng nguồn nước không bị ô nhiễm, nước giếng khoan, nước suối đầu nguồn, không sử dụng nước thải, nước ao tù, ứ đọng lâu ngày.
Đối với cây dâu nếu ẩm độ đất và ẩm độ không khí cao đều bất lợi đến sinh trưởng, cũng như sâu bệnh phát triển, tối ưu nhất với cây dâu là thiết kế hệ thống tưới ngầm, nhỏ giọt.
- Dàn che: Hiện có 2 kiểu canh tác cây dâu tây là trong nhà che nylon và ngoài trời, sản xuất cây dâu trong dàn che có ưu điểm như:
Hạn chế bệnh cây trong mùa mưa, tuy nhiên nếu thiết kế dàn che không đảm bảo chiều cao, thông gió không tốt thì độ ẩm sẽ tăng và bệnh sẽ phát triển mạnh đồng thời nhiệt độ sẽ gia tăng đột ngột tại một số thời điểm trong ngày ảnh hưởng đến sinh lý của cây.
Hạn chế ngập úng đất, ẩm độ gia tăng và rửa trôi phân bón khi mưa kéo dài hay mưa lớn trong vụ hè thu.
- Phòng ngừa dị dạng trái: Thời kỳ kết trái đầu tiên nếu phát hiện quả dị dạng lập tức hải bỏ và giảm bón lượng đạm.
Giai đoạn hoa nở rộ tránh phun xịt thuốc sâu bệnh với nồng độ cao.
4. Phân bón và cách bón phân:
Phân bón: Lượng phân bón cho 1 ha:
Phân chuồng hoai: 40-50m3; vôi: 1.500kg; hữu cơ vi sinh: 1.000-2.000 kg;
Phân hóa học (lượng nguyên chất): 100kg N-120kg P2O5-120kg K2O; MgSO4: 40kg; Boric: 80kg.
Lưu ý: Đổi lượng phân hóa học nguyên chất qua phân đơn tương đương.
Ure: 217kg; super lân: 750 kg; KCl: 200kg.
Cách bón:
Hạng mục
Tổng số
Bón lót
Bón thúc
20 ngày sau trồng
Định kỳ 1tháng/1lần
Phân chuồng hoai
40-50 m3
40-50 m3
Vôi
1.500 kg
1.500 kg
Ure
220 kg
20 kg
20 kg
Super lân
750 kg
750 kg
KCL
200 kg
20 kg
20 kg
Boric
80kg
40kg
4 kg
4 kg
Phân hữu cơ vi sinh
1000-2000kg
1000-2000kg
MgSO4
40 kg
15 kg
2,5 kg
2,5 kg
Ghi chú: Bón vôi 2 đợt/năm: Đợt 1: Bón lót 1000 kg; Đợt 2: 06 tháng sau khi trồng bón bổ sung 500 kg.
Lượng phân định kỳ bón năm thứ nhất là 10 lần, nếu 02 tháng bón 01 lần thì sử dụng lượng gấp đôi. Nếu sử dụng phân đơn thì mỗi đợt bón phân định kỳ có thể bón 20 kg ure, 20 kg kali. Acid Boric và MgSO4 phun xịt định kỳ qua lá.
Chu kỳ kinh doanh của cây dâu thu hoạch trái kéo dài đến 02 năm hoặc hơn. Nếu dâu tây trên 01 năm tuổi chức năng sinh lý của rễ kém ảnh hưởng đến hấp thụ dinh dưỡng, nên bổ sung phân qua lá, định kỳ 10-15 ngày xịt 01 lần.
Bón phân theo nguyên tắc bón ít nhưng bón nhiều lần trong năm. Lượng phân theo khuyến cáo như trên đối với bón định kỳ có thể tăng hay giảm tùy thuộc vào sức sinh trưởng, phát dục, giai đoạn bội thu, chu kỳ ra trái của cây dâu.
- Chỉ sử dụng các loại phân bón có tên trong Danh mục phân bón được phép sản xuất, kinh doanh và sử dụng tại Việt Nam.
Phần III. Sâu hại và biện pháp phòng trừ:
1. Nhện đỏ: Tetranycus Urticae
- Triệu chứng: tấn công mặt dưới lá, làm cho lá non bị chuyển sang màu vàng, là bị khô do cạn kiệt về dinh dưỡng, nhện tấn công lên hoa làm cho nhị hoa bị chết không kết quả được.
- Đặc điểm gây hại: Cả trưởng thành và ấu trùng đều sống tập trung ở mặt dưới phiến lá của những lá non đang chuyển dần sang giai đoạn bánh tẻ.
Nhện gây hại bằng cách chích hút dịch của mô tế bào lá làm cho mặt trên của lá bị vàng loang lổ từng đám, hơi nâu ở phía dưới lá. Ta có thể thấy một lớp mạng nhện nhỏ, mịn ở mặt dưới của lá. Nếu gặp điều kiện thuận lợi nhện sinh sản rất nhanh, mật độ có thể lên đến vài chục con trên một lá, làm cho từng mảng lá bị vàng,  khô cháy.
Hoa và trái cũng bị nhện gây hại. Nhện đỏ hút chất dinh dưỡng trong trái làm cho trái bị vàng, sạm và nứt khi trái lớn. hoa có thể bị thui, rụng.
- Đặc điểm hình thái và quy luật phát sinh:
Nhện đỏ có kích thước cơ thể rất nhỏ, lấm tấm như cám, mắt thường khó phát hiện. nhện trưởng thành dài 0,5-1mm, màu hồng, đỏ nhạt, hình cầu (con cái), con đực nhỏ hơn, mình hình bầu dục, hơi nhọn lại ở đuôi, hai đốt cuối màu đỏ chói, trên mình và thân có nhiều lông cứng. Giai đoạn trưởng thành thường kéo dài từ 10-14 ngày.
Con trưởng thành đẻ trứng rời rạc ở mặt dưới phiến lá. Qua kính lúp sẽ thấy trứng hình tròn, lúc mới đẻ có màu trắng hồng, sau đó hoàn toàn chuyển sang màu hồng.
Trứng sau khi đẻ khoảng 4-5 ngày sẽ nở thành nhện non. Ấu trùng có màu xanh lợt, lúc mới nở chỉ có 6 chân, từ tuổi 2 trở đi cho đến khi trưởng thành chúng có 8 chân. Giai đoạn ấu trùng khoảng 6-9 ngày. Mỗi con cái đẻ 1 lần từ 50-100 trứng.
Nhện đỏ thường phát sinh và gây hại nặng trong mùa khô nóng hoặc những thời gian bị hạn trong mùa mưa.
Nhện đỏ lan truyền nhờ gió, nhờ những sợi tơ, mạng nhện mà chúng tạo ra
- Phòng trừ: Dùng thiên địch, thuốc trừ nhện Nissorun, Comite, Ortus, Oramíte,…
2. Bọ trĩ: Thrip tabaci
- Đặc điểm hình thái: Trưởng thành nhỏ, màu vàng xám, trứng được đẻ trong mô ở các bộ phận non của cây, bọ trĩ cái đẻ trứng được 40-50 trứng.
Bọ trĩ non màu vàng nhạt, sống gây hại chung với bọ trĩ trưởng thành. Bọ trĩ thuộc loại côn trùng biến thái trung gian, bọ trĩ non chuyển sang giai đoạn nhộng giả có thể ở trong lá khô hay vỏ cây, nhưng chủ yếu vẫn là ở trong đất.
Vòng đời của bọ trĩ là 17-20 ngày, một năm có thể có khoảng 20 thế hệ bọ trĩ hoàn thành chu kỳ phát triển.
- Đặc điểm gây hại quy luật phát sinh: Bọ trĩ gây hại chủ yếu trên hoa làm cho quả bị nhỏ, biến dạng. Ngoài ra chúng còn hại lá, búp non và thân, chích hút nhựa làm cây suy kiệt, giảm năng suất thu hoạch. Hoa bị hại chuyển màu nâu. Tuy nhiên trái non vẫn tiếp tục lớn nhưng có màu vàng đồng. Những trái bị triệu chứng này thường nhỏ và cứng, đồng thời những hạt trên bề mặt trái dâu bị lồi ra, bề mặt trái dâu bị rạn và có màu đồng. Nếu cây bị nhiễm nhẹ thì cây bên cạnh không bị ảnh hưởng, nếu cây và trái chín bị nhiễm quá nặng thì bọ trĩ sẽ chuyển sang tấn công những cây bên cạnh và có thể lây lan trên khắp vườn dâu.
- Biện pháp phòng trừ:
Biện pháp canh tác: Bón phân đầy đủ, cân đối, tỉa bớt lá già, thu gom tiêu hủy tàn dư.
Biện pháp hóa học: Hiện nay, Chưa có thuốc đăng ký trong danh mục để phòng trừ đối tượng này. Có thể tham khảo sử dụng một số thuốc có hoạt chất: Abamectin; Abamectin + Chlorfluazuron; + Abamectin + Emamectin benzoate; Abamectin 1.8% + Matrine 0.2%.
3. Sên, nhớt (Helix aspersa)
- Đặc điểm hình thái và quy luật phát sinh: Vỏ ốc mỏng, có 4 đến 5 vòng xoắn, màu sắc thay đổi nhưng thường màu xám hạt dẻ nhạt, hay nâu có những vệt hay đốm vàng. Thân ốc mềm và nhớt màu nâu xám, thu hết vào bên trong vỏ khi không hoạt động. Khi hoạt động sên thò đầu và chân ra khỏi vỏ, đầu có 2 đôi râu vòi. Các râu vòi có thể thu rút vào trong đầu. Sên thuộc loai động vật ăn cỏ, ăn vào ban đêm, chúng ăn nhiều loại cây cỏ khác nhau.
- Đặc điểm gây hại: Ốc sên thường xuyên có mặt trên đồng ruộng, nhưng khi trời nắng thì chúng ẩn nấp ở nơi có bóng mát và ẩm ướt như lá chết, nilon, đá để đẻ trứng. Vào ban đêm hoặc vào những ngày mưa ốc sên và nhớt bò ra ngoài để gây hại. Những vết tổn thương này làm giảm đáng kể giá trị của trái và tạo điều kiện để nấm bệnh xâm nhập và phát triển.
- Biện pháp phòng trừ: Luôn giữ vườn dâu thông thoáng, tránh ẩm độ không khí cao trên ruộng. Trong quá trình canh tác tỉa lá, thu trái nếu phát hiện sên, nhớt phải thu bắt. Thu gom toàn bộ gạch, đá…trên ruộng để hạn chế nơi cư trú của các loài sên nhớt. Sử dụng can nhựa có hòa các chất như bả bia hoặc sữa chua để bẫy sên nhớt trên vườn dâu.
Hiện nay, chưa có thuốc BVTV đăng ký để trừ sên nhớt hại dâu tây.
Phần IV. Bệnh hại và biện pháp phòng trừ:
1. Bệnh rối loạn sinh lý trên cây dâu tây:
a. Thời tiết: Nếu trời lạnh nhị hoa sẽ bị chết dẫn đến hoa có màu nâu, nếu thời tiết quá lạnh hoa sẽ bị chết, một số hoa đã thụ phấn sống sót làm cho hoa bị biến dạng. Vào mùa lạnh, khi nhiệt độ quá thấp, tế bào bị đông đá, phần gốc hóa nâu, cây sinh trường kém và mẫn cảm với sâu bệnh.
b. Cường độ sáng cao, tế bào sẽ bị chết, trên lá có những dấu hình tròn.
c. Mưa đá gây dập lá, hoa, quả, tạo cơ hội cho nấm bệnh xâm nhập, cây bị tổn thương lớn, tạo ra nhiều vết nâu trên lá do cây bị xước.
d. Rối loạn dinh dưỡng:
- Đạm: Lúc đầu cây đầu cần nhu cầu đạm rất lớn, nếu thiếu đạm lá, quả sẽ nhỏ, cây cho ra ít ngó, lá già chuyển sang màu cam hoặc đỏ, là non nhỏ và có màu xanh nhạt. Thừa đạm làm giảm chất lượng của quả, cây dễ bị nhiễm bệnh.
Phân tích mẫu đất và dựa vào tình hình sinh trưởng, triệu chứng của cây để điều chỉnh đạm cho phù hợp.
- Kali: Cây thiếu kali là bị héo, lá già bị khô, quả dễ bị thối.
Dùng Bicarbonate kali phun lên là có thể phòng ngừa bệnh và cung cấp thêm kali cho cây; Cung cấp thường xuyên phân kali cho cây như KNO3, K2SO4.
- Boron: Thiếu Bo là một trong những nguyên nhân dẫn đến trái dâu nhỏ hơn bình thường và dị dạng vì một vài chỗ trên trái bị teo lại và không phát triển. Mùi vị của trái gần như bình thường nhưng không có giá trị về mặt kinh tế.
Vi lượng Bo rất quan trọng trong quá trình thụ phấn. Khi một hay nhiều hoa cái không được thụ phấn thì mô quả ở chỗ đó sẽ không phát triển và làm cho trái bị dị dạng. Boron có chức năng quan trọng đối với bộ rễ, vì vậy thiếu hụt Boron có thể làm cho cây dâu không hấp thu tốt các chất dinh dưỡng.
- Canxi: Khi lá còn non và chưa trải ra, đầu mút của lá đã bị hoại tử và khô, vì vậy khi lá lớn lên đầu mút bị xoắn lại nhưng những phần khác của lá vẫn phát triển bình thường khỏe mạnh. Những cây dâu phát triển quá nhanh thường gây cản trở cho việc hấp thu canxi từ đất, mặt dù lượng canxi trong đất rất dồi dào. Khí hậu khô, lạnh và nhiều mây gây cản trở rất nhiều đến việc hấp thụ canxi của cây.
- Thuốc trừ cỏ: Dùng thuốc trừ cỏ không đúng thuốc, đúng liều cây sẽ bị chết, nên dùng thuốc trừ cỏ có chọn lọc, thuốc tiền nảy mầm hoặc hậu nảy mầm.
e. Bệnh bạch tạng (Physiological)
- Triệu chứng: khi trái dâu chin, trên trái dâu xuất hiện những mảng màu trắng, làm giảm giá trị thẩm mỹ và hương vị dâu. Hơn thế nữa những mảng trắng làm tăng nguy cơ xâm nhập của nấm gây thối trái.
- Nguyên nhân: Nguồn gốc của loại bệnh này có thể liên quan đến sự sinh trưởng dinh dưỡng quá mạnh và hàm lượng đạm quá cao cùng với điều kiện thời tiết ẩm thấp và trời nhiều mây, u ám.
2. Các loại bệnh hại:
a. Bệnh xì mủ lá: (Xanthomonas fragaria)
- Triệu chứng: Vết bệnh là những đốm nhỏ sũng nước ban đầu xuất hiện dưới bề mặt lá. Lá có màu xanh tái khi đưa ra ánh sáng mặt trời. Sau đó các lá bị bệnh có thể bị khô héo và chết.
Quá trình nhiễm bệnh: Vi khuẩn lan từ cây này sang cây khác, từ lá già sang lá non do sự bắn toé nước khi trời mưa hoặc do tưới tiêu. Vi khuẩn xâm nhập qua cửa khí khổng của lá. Để nhận biết bệnh, vào sáng sớm lật mặt lá lên, ta có thể nhìn thấy chất dịch màu trắng như mủ chảy ra từ vết bệnh. Bệnh gây hại các giai đoạn sinh trưởng của cây.
- Biện pháp phòng trừ: Sử dụng cây giống từ những vườn ươm sạch bệnh.
Sau khi đã ngắt tỉa những lá bị bệnh phải tiến hành thu gom để tiêu huỷ hoặc đốt, chôn xa ruộng dâu để diệt trừ triệt để những mầm bệnh còn sót lại trên đồng ruộng.
Hạn chế sử dụng hệ thống tưới phun mưa, sử dụng lớp phủ rơm cỏ khô để hạn chế sự bắn toé nước khi trời mưa, giữ cho ruộng dâu luôn khô ráo và có phương pháp tưới hợp lý (nếu có điều kiện nên áp dụng hệ thống tưới nhỏ giọt).
Nếu thực hiện một cách nghiêm túc các biện pháp trên ta có thể khống chế bệnh một cách dễ dàng, ngay cả trong trường hợp cây bị nhiễm bệnh nặng.
b. Bệnh đốm đỏ: (Mycosphaerella fragariae)
- Triệu chứng: Ban đầu trên lá xuất hiện những đốm tròn màu tía, có thể nhìn thấy trên bề mặt lá. Đốm tròn lan rộng từ 3-6mm. Ở trung tâm đốm có màu xám trắng, hoại tử, có quầng màu tím bao quanh đốm bệnh. Ta có thể nhìn thấy những đốm đỏ ở mặt dưới của lá nhưng màu nhạt hơn. Bệnh gây hại các giai đoạn sinh trưởng của cây.
Quá trình nhiễm bệnh: Những bào tử trưởng thành gây hại ở cây bệnh có thể lây qua cây mới do sự bắn toé nước khi tưới phun mưa hoặc khi trời mưa to. Khí hậu ấm và ẩm thuận lợi cho bệnh đốm đỏ phát triển.
- Biện pháp phòng trừ: Tỉa các phần bị bệnh và bị chết của cây, tiêu huỷ chúng bằng cách đốt hoặc chôn ở xa ruộng dâu.
Dùng cỏ khô phủ đất để giảm sự bắn toé nước khi trời mưa nặng hạt. Tránh làm bắn toé nước khi dùng hệ thống tưới phun mưa. Tưới nhỏ giọt là biện pháp tốt để kiểm soát bệnh này.
c. Bệnh phấn trắng: (Sphaerotheca macularis)
- Triệu chứng: Ban đầu vết bệnh xuất hiện một lớp bột trắng, ta có thể nhìn thấy sau mặt lá, nhưng trên mặt lá thân, hoa, và trái cũng có thể bị nhiễm bệnh. Lá bệnh có khuynh hướng cuốn tròn lên phía trên và để lộ sau mặt lá một lớp bột màu trắng. Những vùng bị nhiễm bệnh thường sẽ héo khô và chết.
- Quá trình nhiễm bệnh: Những vùng bị nhiễm bệnh có thể phân tán một số lượng lớn mầm bệnh và theo gió và lây lan qua những cây khoẻ mạnh.
Nấm tự hình thành không phụ thuộc vào ẩm độ, ngay cả trong điều kiện khô ráo, nấm vẫn có thể xuất hiện. Loại nấm này thường gặp nhiều ở nhà kính và dàn che nilon hơn là canh tác ngoài trời. Nấm phấn trắng lây lan rất nhanh và gây thất thu lớn đến sản lượng dâu và chất lượng trái. Bệnh gây hại các giai đoạn sinh trưởng của cây nhưng ảnh hưởng nhiều ở thời kỳ cây đã ra hoa, kết trái.
- Biện pháp phòng trừ: Vệ sinh đồng ruộng, ngắt tỉa thường xuyên các thân lá bị bệnh đem tiêu huỷ ở xa ruộng. Sử dụng nguồn giống sạch bệnh, luân canh với các cây trồng không phải là ký chủ của bệnh phấn trắng.
Dàn che dâu phải cao, thông gió, lên luống cao tránh úng vào mùa mưa.
Không trồng mật độ dày, tăng cường phân kali cho cây.
d. Bệnh mốc xám: Thối trái do Botrytis cinerea
- Triệu chứng: Nấm Botrytis chủ yếu xuất hiện ở giai đoạn quả chín, trong điều kiện ẩm ướt bệnh có thể gây hại nghiêm trọng. Biểu hiện đầu tiên là những đốm nâu sáng xuất hiện, sau đó lan rộng cả trái và phủ một lớp mốc xám.
Hoa và trái non cũng có thể bị nhiễm bệnh và làm cho trái bị khô. Nhiệt độ tích trữ trái dâu đã thu hoạch càng cao thì mầm bệnh nhanh chóng lây lan.
- Quá trình nhiễm bệnh: Mầm bệnh có thể xuất phát từ lá, trái bị nhiễm bệnh còn xót lại trên ruộng và lây lan bởi gió, ngoài ra mầm bệnh cũng có thể đến từ bên ngoài ruộng nhưng điều đó không quan trọng.
Bệnh mốc xám phát triển rất mạnh trong điều kiện ẩm độ không khí cao và bề mặt luống ẩm ướt trong điều kiện thời tiết mùa mưa.
- Biện pháp phòng trừ. Thu dọn tất cả các tàn dư của cây bệnh đốt hoặc chôn xa đồng ruộng. Sử dụng màn phủ bằng rơm hoặc lưới để ngăn trái không tiếp xúc với đất trồng hoặc sự ẩm ướt.
Chọn đất trồng cao ráo, thoát nước tốt, lên luống cao. Bón cân đối NPK, tăng cường Kali trong vụ mưa. Luân canh và xử lý đất trước khi trồng.
Hạn chế sử dụng hệ thống tưới phun mưa, không tưới vào buổi giữa trưa hoặc xế chiều vì thời gian này duy trì sự ẩm ướt sẽ kéo dài. Giữ cho bề mặt luống dâu luôn được khô ráo. Trái đã thu hoạch nên bảo quản ở nhiệt độ 2-40C để ngăn chặn sự sinh trưởng của nấm bệnh.
Lưu ý: Trong thời gian ẩm độ đất và ẩm độ không khí cao phải rút ngắn thời gian giữa 2 lần phun từ 3-4 ngày xử lý 1 lần mới có khả năng hạn chế được bệnh. Phun kỹ vào các chùm trái, giai đoạn hoa nở rộ tránh phun xịt thuốc với nồng độ cao sẽ làm trái dị dạng. Trong vùng đã bị kháng thuốc thì phải thay đổi và sử dụng luân phiên các loại thuốc trừ nấm khác nhau. Dưới điều kiện mưa nhiều và kéo dài thì nấm bệnh rất khó kiểm soát.
e. Bệnh cao su: Thối trái do Phytophthora cactorum
- Triệu chứng: Cả trái non và trái chín đều bị biến màu. Trái xanh dễ bị cứng và chuyển sang màu nâu. Trái già chuyển sang màu trắng tái, màu đỏ hoặc hơi nâu và hơi mềm. Trái bị bệnh trở nên khô, teo nhỏ lại và dai như cao su.
Triệu chứng đặc biệt của bệnh này là trái bị mất hương, vị có mùi khó chịu. Trái bị bệnh có mùi dầu nhớt xe và có vị đắng.
- Quá trình nhiễm bệnh: Nấm có trong đất và xâm nhập lên trái do sự bắn tóe nước khi trời mưa hoặc tưới nước hoặc do trái tiếp xúc với đất trồng.
Bệnh lây lan và phát triển nhanh vào mùa mưa và ẩm độ không khí cao.
- Biện pháp phòng trừ: Để kiểm soát bệnh này, cần phải kiểm soát lượng nước. Cách ngăn chặn, phòng ngừa rẻ tiền và hiệu quả là dùng màng phủ. Màng phủ cỏ khô và rơm là tốt nhất. Nhưng lớp màn phủ phải đủ dày để trái không bị tiếp xúc với đất trồng và không bị ảnh hưởng bởi sự bắn tóe nước. Biện pháp tốt nhất là phủ một lớp cỏ hoặc rơm khô lên bề mặt đất trồng sau đó phủ một lớp lưới lên trên lớp cỏ. Biện pháp này giúp cho trái dâu được khô ráo, không những ngăn ngừa được bệnh cao su mà còn ngăn ngừa được nhiều bệnh khác.
g. Bệnh đốm đen (Colletotrichum acutatum)
- Triệu chứng: Khi trái chín, xuất hiện những đốm tròn có màu nâu. Những đốm tròn sạm màu và sau đó biến thành màu đen hoàn toàn. Nếu trái bị nhiễm bệnh trước khi chín thì toàn bộ trái sẽ bị đen và héo.
Trong quá trình vận chuyển, tích trữ, nguồn bệnh vẫn tiếp tục lây lan làm cho trái bị hư hỏng nặng hơn. Đây là vấn đề đáng quan tâm.
- Quá trình nhiễm bệnh: Những ngó dâu đã bị nhiễm bệnh ngay từ lúc trồng thường không thấy xuất hiện triệu chứng bệnh. Trong ruộng dâu, nấm bệnh có thể lây lan do sự bắn tóe nước khi tưới hoặc do trời mưa nặng hạt hoặc do quá trình chăm sóc cắt tỉa và thu hái. Cây có quá nhiều đạm cũng rất dễ nhiễm bệnh.
h. Bệnh thối đen rễ dâu tây
- Triệu chứng gây hại: Thường bắt đầu ngay trong năm đầu tiên cho quả. Các tổn thương sẽ biểu hiện rõ nhất trong khu vực đất thấp hoặc nơi có sự thoát nước kém. Cây bị bệnh tăng trưởng kém, thiếu sức sống, còi cọc. Cây sẽ bị khủng hoảng nước do nhu cầu nước trong quá trình sinh trưởng cao, trong hoặc sau khi cho quả rộ, hay bị hạn hán.
Trên lá: Lúc đầu lá bị đỏ như luộc từ ngoài rìa lá vào sau khô quắt, rũ làm cây héo hết lá.
Rễ bị thâm đen, ở giữa mạch lybe của trung trụ bị thối lan rộng dần.
Thân bị bệnh cắt ngang thân phần gỗ lúc đầu chuyển sang màu nâu vàng, khi cây héo và chết vết thâm lan rộng hết phần lõi và chuyển sang nâu đậm.
Những cây bị bệnh thối rễ thường tạo điều kiện cho các loại nấm bệnh khác phát triển và gây hại cuống lá, lá và quả.
- Nguyên nhân, điều kiện phát sinh phát triển của bệnh: Thối đen rễ là do sự tương tác phức tạp của nấm, tuyến trùng và các yếu tố môi trường gây nên. Những nghiên cứu của Cục BVTV Nhật Bản từ tháng 5/1973 đến tháng 12/1974 cho thấy một số loại nấm có liên quan đến căn bệnh bao gồm Rhizoctonia spp, Pythium spp. va Fusarium spp. Khi rễ cây có mặt tuyến trùng gây tổn thương thì bệnh thường nặng hơn. Bệnh thường xảy ra ở các vùng thấp, dễ ngập nước, trên đất đầm hoặc khi chất hữu cơ thấp.
Thường sẽ có một hoặc nhiều chủng loại nấm tấn công gây hại. Kết quả bước đầu phân tích, tác nhân gây hại tại Đà Lạt là loại nấm Pythium sppFusarium spp. Những yếu tố môi trường thuận lợi cho thối đen gốc bao gồm đất thoát nước kém, tổn thương do nhiệt độ thấp, sự mất cân bằng dinh dưỡng và ảnh hưởng của thuốc diệt cỏ, bệnh sẽ trở nên phức tạp và khó kiểm soát.
Ghi chú: Thực hiện biện pháp phòng trừ tổng hợp đạt kết quả cao hơn sử dụng đơn lẻ phương pháp hóa học. Chỉ sử dụng các loại thuốc BVTV có tên trong Danh mục thuốc BVTV được phép sản xuất, kinh doanh và sử dụng tại Việt Nam.
Phần V. Phòng trừ dịch hại tổng hợp
Áp dụng các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp IPM
1. Biện pháp canh tác kỹ thuật: Vệ sinh đồng ruộng sạch sẽ, cắt tỉa các lá già vàng úa tiêu hủy, luân canh cây trồng khác họ, chọn giống khỏe, sức đề kháng sâu bệnh tốt, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Bón phân cân đối và hợp lý, tăng cường sử dụng phân hữu cơ sinh học, vi sinh. Chăm sóc theo yêu cầu sinh lý của cây. Kiểm tra đồng ruộng phát hiện và kịp thời có biện pháp quản lý thích hợp đối với sâu, bệnh
Thực hiện ghi chép nhật ký đồng ruộng
2. Biện pháp sinh học:  Hạn chế sử dụng các loại thuốc hóa học có độ độc cao để bảo vệ các loài ong ký sinh của ruồi đục lá, các loài thiên địch bắt mồi như nhện, bọ đuôi kìm…Sử dụng các chế phẩm sinh học trừ sâu bệnh
3. Biện pháp vật lý: Sử dụng bẫy màu vàng, bôi các chất bám dính: dùng nhựa thông (Colophan) nấu trộn với nhớt xe theo tỉ lệ 4/6,  bẫy Pheromone dẫn dụ côn trùng
Có thể sử dụng lưới ruồi cao từ 1,5-1,8m che chắn xung quanh vườn hạn chế ruồi đục lá, sâu, côn trùng gây hại bay từ vườn khác sang
4. Biện pháp hóa học: Sử dụng thuốc phải cân nhắc kỹ theo nguyên tắc 4 đúng (đúng lúc, đúng cách, đúng liều lượng, đúng thuốc) và nhớ đọc kỹ hướng dẫn sử dụng thuốc trước khi dùng. Phun khi bệnh chớm xuất hiện
Chỉ sử dụng thuốc BVTV khi thật cần thiết và theo các yêu cầu sau:
+ Không sử dụng loại thuốc cấm sử dụng cho rau
+ Chọn các thuốc có hàm lượng hoạt chất thấp, ít độc hại với thiên địch, các động vật khác và con người
+ Ưu tiên sử dụng các thuốc sinh học (thuốc vi sinh và thảo mộc)
Phần VI. Thu hoạch, phân loại và xử lý bảo quản sau thu hoạch:
Dâu tây không chín thêm sau khi thu hoạch, do đó, để đạt chất lượng tốt nhất nên thu hoạch dâu tây khi quả đã chín (trái đã chuyển sang màu đỏ đều).
Phân loại và đóng gói dâu tây theo yêu cầu của khách hàng, tốt nhất đóng dâu trong các hộp đặc biệt, tránh để các trái dâu tiếp xúc và cọ xát lẫn nhau.
Trái dâu tây không bảo quản được lâu và chỉ nên bảo quản trong vài ngày, khi thu hoạch xong tốt nhất phải bảo quản và vận chuyển trong điều kiện lạnh.