Phần I. Đặc điểm thực vật học và yêu cầu ngoại cảnh:
1. Đặc điểm thực vật học:
Lá:
 Lá có hình dạng, cấu trúc, độ dày và lượng lông tơ thay đổi tùy theo 
giống. Hầu hết các giống dâu tây đều có lá kép với 3 lá chét, một số 
giống có lá kép với 4 hoặc 5 lá chét. Mép lá có răng cưa. Cuống lá dài, 
cuống lá thường có màu trắng khi lá còn non và chuyển sang màu đỏ của 
đất khi lá già. 
Hoa:
 Phân chia thành nhiều nhánh, mỗi nhánh có một hoa. Hoa có 5 cánh tràng 
mỏng, màu trắng, hơi tròn. Hoa lưỡng tính, có 25-30 nhị và 50-500 nhụy. 
Dâu tây là loài giao phấn nhưng thông qua hình thức tự thụ phấn để gia 
tăng tần suất các gen mong muốn và tạo ra một số loài. 
Quả:
 là một loại quả giả do đế hoa phình to, quả thật nằm ở bên ngoài quả 
giả. Quả có hình bầu dục, quả non có màu xanh lục, khi quả chín, quả có 
màu hồng hoặc màu đỏ tuỳ từng giống. Quả Dâu tây có mùi thơm, vị ngọt 
lẫn vị chua. 
Rễ: Hệ thống rễ chùm, rễ phát triển ở độ sâu cách mặt đất khoảng 30cm.
2. Yêu cầu về điều kiện ngoại cảnh: 
Nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng và phát triển từ 18-220C.
 Ánh sáng cần thiết cho cây dâu tây sinh trưởng và phát triển, cường độ 
ánh sáng mạnh thì mới sinh trưởng mạnh, thiếu ánh sáng thường ảnh hưởng 
đến khả năng ra hoa kết quả. Độ ẩm cần thiết cho sự phát triển của cây 
dâu tây trên 84%, ẩm độ không khí cao và mưa kéo dài thường gây bệnh cho
 cây. Cây dâu tây thích hợp với loại đất thịt nhẹ, hàm lượng chất hữu cơ
 cao, đất giữ ẩm nhưng thoát nước tốt. Đất có hàm lượng chất hữu cơ cao 
sẽ giúp cho cây dâu tây phát triển tốt, đạt năng suất cao và kéo dài 
thời gian thu hoạch quả. 
Phần II. Kỹ thuật trồng và chăm sóc:
1.
 Giống: Hiện nay, tại Lâm Đồng dâu tây sử dụng 2 cơ cấu giống chính là 
giống ngoài trời: Giống Mỹ đá, Mỹ thơm (Pajero), Langbiang… và giống 
trong nhà mái che: Giống Newzealand và giống Akihime.
Tiêu chuẩn lựa chọn giống xuất vườn:
Giống 
 | 
Độ tuổi 
(ngày) 
 | 
Chiều 
cao cây (cm) 
 | 
Đường kính cổ rễ (mm) 
 | 
Số lá thật 
 | 
Tình trạng cây 
 | 
Dâu   tây 
(cây  nuôi cấy mô) 
 | 
30-60 
 | 
3.5-12 
 | 
1,5-2,5 
 | 
6-12 
 | 
Cây khoẻ mạnh, không dị hình, rễ chớm đáy bầu,   ngọn phát triển tốt, không có biểu hiện nhiễm sâu bệnh 
 | 
Dâu   tây 
(cây   từ ngó) 
 | 
14-17 
 | 
8-12 
 | 
1,5-2,5 
 | 
6-12 
 | 
Cây khoẻ mạnh, không dị hình, rễ chớm đáy bầu,   ngọn phát triển tốt, không có biểu hiện nhiễm sâu bệnh 
 | 
Giống cây dâu tây hiện nay chủ yếu nhân giống vô tính theo 2 cách: 
Cấy
 mô: Cây con sẽ đạt được tiêu chuẩn tốt, độ đồng điều cao, phát huy ưu 
điểm của giống, sức sống khỏe, năng suất cao, sạch bệnh.
Tách
 cây con từ ngó cây mẹ: Phương pháp này dễ làm, chủ động nhưng ảnh hưởng
 đến sinh trưởng và phát dục của cây mẹ. Cây con không đạt tiêu chuẩn và
 sức sống như cây cấy mô. Chỉ nên lấy cây con từ tách ngó cây mẹ dưới 01
 năm tuổi thì mới đảm bảo chất lượng giống.
Giống trồng từ ngó: 66% và Giống trồng từ cây mô: 34%
2.
 Chuẩn bị đất: Chọn đất thịt nhẹ, cao ráo, thoát nước tốt. Cây dâu tây 
là đối tượng của nhiều loại sâu, bệnh, do đó biện pháp chọn đất, làm 
đất, xử lý đất phải chú trọng đúng mức để hạn chế nguồn bệnh ban đầu lây
 lan từ đất.
Vệ sinh đồng ruộng thu dọn tất cả tàn dư cây trồng trước, làm đất xử lý vôi và các loại thuốc sâu, thuốc bệnh.
3. Trồng và chăm sóc:
Luống trồng cao 20-25cm ở vùng đất thấp; 15-20cm ở vùng đất cao.
Trong nhà nylon: Trồng hàng 3 kiểu nanh sấu, luống rãnh 1,2m-1,3m; cây x cây: 35-40 cm, mật độ 40.000-45.000 cây/ha.
Ngoài
 trời: Trồng hàng 3 kiểu nanh sấu, luống rảnh 1,2m-1,3m, cây x cây: 
40-45cm. mật độ 35.000-40.000 cây/ha. Với khí hậu Đà Lạt nếu trồng mật 
độ dày sẽ dễ phát triển bệnh cây.
Trồng phải đặc cây thẳng với mặt đất, đào lỗ đủ sâu để lấp hết bầu rễ của cây, tránh làm vỡ bầu cây con.
-
 Ngắt chùm hoa, cắt tỉa ngó: Để cây sinh trưởng mạnh và ổn định trong 
giai đoạn đầu nên ngắt bỏ chùm hoa bói đầu tiên để tăng cường sinh 
trưởng và ức chế phát dục.
Trong
 giai đoạn thu hoạch, để trái lớn đều nên cân đối giữa khả năng phát 
triển của khung tán và số lượng hoa trái trên cây nếu nụ, hoa, trái ra 
nhiều cần tỉa bỏ những nụ, hoa, trái dị dạng và sâu bệnh.
Nếu không tận dụng ngó để nhân giống thì nên cắt bỏ toàn bộ ngó.
Giai
 đoạn đầu khi thân lá cây chưa phủ luống có thể để ngó với khoảng cách 
15 cm (5-6 ngó/cây). Để tăng cường sinh trưởng cây ban đầu, hạn chế ngó 
đâm rễ phụ trên luống.
-
 Tỉa thân lá: Đảm bảo mật độ phân tán cây dâu cân đối nên để từ 3-4 
thân/gốc. Do đặc điểm của giống, chế độ phân bón, thời tiết, chăm sóc 
khả năng phân tán, ra lá sẽ khác nhau. Tỉa bớt các lá già, sâu bệnh, lá 
bị che khuất tầng dưới. Chú ý không nên tỉa quá nhiều sẽ mất khả năng 
quang hợp của cây. Các bộ phận của cây sau khi cắt tỉa cần phải tiêu huỷ
 ở xa vườn trồng.
-
 Che phủ đất: Dùng tấm nhựa để che phủ mặt luống trồng dâu. Phương pháp 
này có các ưu điểm như sau: Giữ ẩm cho luống trồng, gia tăng nhiệt độ 
cho luống trồng (phủ nhựa đen) phù hợp cho sinh trưởng cây dâu đồng thời
 hạn chế một số nấm bệnh, cách ly trái tiếp xúc với đất hạn chế bệnh 
thối trái. Hạn chế cỏ dại và rửa trôi phân bón.
Hiện
 nay có 3 cách che phủ luống được áp dụng: Dùng nhựa PE (thích hợp cho 
trồng dâu trong nhà nylon). Dùng cỏ khô, tro trấu. Dùng cỏ khô kết hợp 
với lưới nylon trắng.
Tuy nhiên việc che phủ đất tại vùng đất thấp thường phát sinh sên nhớt.
Tưới
 nước: Sử dụng nguồn nước không bị ô nhiễm, nước giếng khoan, nước suối 
đầu nguồn, không sử dụng nước thải, nước ao tù, ứ đọng lâu ngày.
Đối
 với cây dâu nếu ẩm độ đất và ẩm độ không khí cao đều bất lợi đến sinh 
trưởng, cũng như sâu bệnh phát triển, tối ưu nhất với cây dâu là thiết 
kế hệ thống tưới ngầm, nhỏ giọt.
-
 Dàn che: Hiện có 2 kiểu canh tác cây dâu tây là trong nhà che nylon và 
ngoài trời, sản xuất cây dâu trong dàn che có ưu điểm như:
Hạn
 chế bệnh cây trong mùa mưa, tuy nhiên nếu thiết kế dàn che không đảm 
bảo chiều cao, thông gió không tốt thì độ ẩm sẽ tăng và bệnh sẽ phát 
triển mạnh đồng thời nhiệt độ sẽ gia tăng đột ngột tại một số thời điểm 
trong ngày ảnh hưởng đến sinh lý của cây.
Hạn chế ngập úng đất, ẩm độ gia tăng và rửa trôi phân bón khi mưa kéo dài hay mưa lớn trong vụ hè thu.
- Phòng ngừa dị dạng trái: Thời kỳ kết trái đầu tiên nếu phát hiện quả dị dạng lập tức hải bỏ và giảm bón lượng đạm.
Giai đoạn hoa nở rộ tránh phun xịt thuốc sâu bệnh với nồng độ cao.
4. Phân bón và cách bón phân:
Phân bón: Lượng phân bón cho 1 ha: 
Phân chuồng hoai: 40-50m3; vôi: 1.500kg; hữu cơ vi sinh: 1.000-2.000 kg;
Phân hóa học (lượng nguyên chất): 100kg N-120kg P2O5-120kg K2O; MgSO4: 40kg; Boric: 80kg.
Lưu ý: Đổi lượng phân hóa học nguyên chất qua phân đơn tương đương.
Ure: 217kg; super lân: 750 kg; KCl: 200kg.
Cách bón:
Hạng mục 
 | 
Tổng số 
 | 
Bón lót 
 | 
Bón thúc 
 | 
|
20 ngày sau trồng 
 | 
Định kỳ 1tháng/1lần 
 | 
|||
Phân   chuồng hoai 
 | 
40-50 m3 
 | 
40-50 m3 
 | 
||
Vôi 
 | 
1.500 kg 
 | 
1.500   kg 
 | 
||
Ure 
 | 
220 kg 
 | 
20   kg 
 | 
20 kg 
 | 
|
Super   lân 
 | 
750   kg 
 | 
750   kg 
 | 
||
KCL 
 | 
200   kg 
 | 
20   kg 
 | 
20 kg 
 | 
|
Boric 
 | 
80kg 
 | 
40kg 
 | 
4   kg 
 | 
4 kg 
 | 
Phân hữu cơ vi sinh  
 | 
1000-2000kg 
 | 
1000-2000kg 
 | 
||
MgSO4 
 | 
40 kg 
 | 
15   kg 
 | 
2,5   kg 
 | 
2,5 kg 
 | 
Ghi chú: Bón vôi 2 đợt/năm: Đợt 1: Bón lót 1000 kg; Đợt 2: 06 tháng sau khi trồng bón bổ sung 500 kg.
Lượng
 phân định kỳ bón năm thứ nhất là 10 lần, nếu 02 tháng bón 01 lần thì sử
 dụng lượng gấp đôi. Nếu sử dụng phân đơn thì mỗi đợt bón phân định kỳ 
có thể bón 20 kg ure, 20 kg kali. Acid Boric và MgSO4 phun xịt định kỳ qua lá.
Chu
 kỳ kinh doanh của cây dâu thu hoạch trái kéo dài đến 02 năm hoặc hơn. 
Nếu dâu tây trên 01 năm tuổi chức năng sinh lý của rễ kém ảnh hưởng đến 
hấp thụ dinh dưỡng, nên bổ sung phân qua lá, định kỳ 10-15 ngày xịt 01 
lần.
Bón
 phân theo nguyên tắc bón ít nhưng bón nhiều lần trong năm. Lượng phân 
theo khuyến cáo như trên đối với bón định kỳ có thể tăng hay giảm tùy 
thuộc vào sức sinh trưởng, phát dục, giai đoạn bội thu, chu kỳ ra trái 
của cây dâu.
- Chỉ sử dụng các loại phân bón có tên trong Danh mục phân bón được phép sản xuất, kinh doanh và sử dụng tại Việt Nam.
Phần III. Sâu hại và biện pháp phòng trừ:
1. Nhện đỏ: Tetranycus Urticae 
-
 Triệu chứng: tấn công mặt dưới lá, làm cho lá non bị chuyển sang màu 
vàng, là bị khô do cạn kiệt về dinh dưỡng, nhện tấn công lên hoa làm cho
 nhị hoa bị chết không kết quả được. 
-
 Đặc điểm gây hại: Cả trưởng thành và ấu trùng đều sống tập trung ở mặt 
dưới phiến lá của những lá non đang chuyển dần sang giai đoạn bánh tẻ.
Nhện
 gây hại bằng cách chích hút dịch của mô tế bào lá làm cho mặt trên của 
lá bị vàng loang lổ từng đám, hơi nâu ở phía dưới lá. Ta có thể thấy một
 lớp mạng nhện nhỏ, mịn ở mặt dưới của lá. Nếu gặp điều kiện thuận lợi 
nhện sinh sản rất nhanh, mật độ có thể lên đến vài chục con trên một lá,
 làm cho từng mảng lá bị vàng,  khô cháy.
Hoa
 và trái cũng bị nhện gây hại. Nhện đỏ hút chất dinh dưỡng trong trái 
làm cho trái bị vàng, sạm và nứt khi trái lớn. hoa có thể bị thui, rụng.
- Đặc điểm hình thái và quy luật phát sinh:
Nhện
 đỏ có kích thước cơ thể rất nhỏ, lấm tấm như cám, mắt thường khó phát 
hiện. nhện trưởng thành dài 0,5-1mm, màu hồng, đỏ nhạt, hình cầu (con 
cái), con đực nhỏ hơn, mình hình bầu dục, hơi nhọn lại ở đuôi, hai đốt 
cuối màu đỏ chói, trên mình và thân có nhiều lông cứng. Giai đoạn trưởng
 thành thường kéo dài từ 10-14 ngày.
Con
 trưởng thành đẻ trứng rời rạc ở mặt dưới phiến lá. Qua kính lúp sẽ thấy
 trứng hình tròn, lúc mới đẻ có màu trắng hồng, sau đó hoàn toàn chuyển 
sang màu hồng.
Trứng
 sau khi đẻ khoảng 4-5 ngày sẽ nở thành nhện non. Ấu trùng có màu xanh 
lợt, lúc mới nở chỉ có 6 chân, từ tuổi 2 trở đi cho đến khi trưởng thành
 chúng có 8 chân. Giai đoạn ấu trùng khoảng 6-9 ngày. Mỗi con cái đẻ 1 
lần từ 50-100 trứng.
Nhện đỏ thường phát sinh và gây hại nặng trong mùa khô nóng hoặc những thời gian bị hạn trong mùa mưa.
Nhện đỏ lan truyền nhờ gió, nhờ những sợi tơ, mạng nhện mà chúng tạo ra
- Phòng trừ: Dùng thiên địch, thuốc trừ nhện Nissorun, Comite, Ortus, Oramíte,…
2. Bọ trĩ: Thrip tabaci
-
 Đặc điểm hình thái: Trưởng thành nhỏ, màu vàng xám, trứng được đẻ trong
 mô ở các bộ phận non của cây, bọ trĩ cái đẻ trứng được 40-50 trứng.
Bọ
 trĩ non màu vàng nhạt, sống gây hại chung với bọ trĩ trưởng thành. Bọ 
trĩ thuộc loại côn trùng biến thái trung gian, bọ trĩ non chuyển sang 
giai đoạn nhộng giả có thể ở trong lá khô hay vỏ cây, nhưng chủ yếu vẫn 
là ở trong đất.
Vòng đời của bọ trĩ là 17-20 ngày, một năm có thể có khoảng 20 thế hệ bọ trĩ hoàn thành chu kỳ phát triển. 
-
 Đặc điểm gây hại quy luật phát sinh: Bọ trĩ gây hại chủ yếu trên hoa 
làm cho quả bị nhỏ, biến dạng. Ngoài ra chúng còn hại lá, búp non và 
thân, chích hút nhựa làm cây suy kiệt, giảm năng suất thu hoạch. Hoa bị 
hại chuyển màu nâu. Tuy nhiên trái non vẫn tiếp tục lớn nhưng có màu 
vàng đồng. Những trái bị triệu chứng này thường nhỏ và cứng, đồng thời 
những hạt trên bề mặt trái dâu bị lồi ra, bề mặt trái dâu bị rạn và có 
màu đồng. Nếu cây bị nhiễm nhẹ thì cây bên cạnh không bị ảnh hưởng, nếu 
cây và trái chín bị nhiễm quá nặng thì bọ trĩ sẽ chuyển sang tấn công 
những cây bên cạnh và có thể lây lan trên khắp vườn dâu.
- Biện pháp phòng trừ:
Biện pháp canh tác: Bón phân đầy đủ, cân đối, tỉa bớt lá già, thu gom tiêu hủy tàn dư.
Biện
 pháp hóa học: Hiện nay, Chưa có thuốc đăng ký trong danh mục để phòng 
trừ đối tượng này. Có thể tham khảo sử dụng một số thuốc có hoạt chất: 
Abamectin; Abamectin + Chlorfluazuron; + Abamectin + Emamectin benzoate; Abamectin 1.8% + Matrine 0.2%. 
3. Sên, nhớt (Helix aspersa) 
- Đặc điểm hình thái và quy luật phát sinh: Vỏ
 ốc mỏng, có 4 đến 5 vòng xoắn, màu sắc thay đổi nhưng thường màu xám 
hạt dẻ nhạt, hay nâu có những vệt hay đốm vàng. Thân ốc mềm và nhớt màu 
nâu xám, thu hết vào bên trong vỏ khi không hoạt động. Khi hoạt động sên
 thò đầu và chân ra khỏi vỏ, đầu có 2 đôi râu vòi. Các râu vòi có thể 
thu rút vào trong đầu. Sên thuộc loai động vật ăn cỏ, ăn vào ban đêm, 
chúng ăn nhiều loại cây cỏ khác nhau.
- Đặc điểm gây hại: Ốc
 sên thường xuyên có mặt trên đồng ruộng, nhưng khi trời nắng thì chúng 
ẩn nấp ở nơi có bóng mát và ẩm ướt như lá chết, nilon, đá để đẻ trứng. 
Vào ban đêm hoặc vào những ngày mưa ốc sên và nhớt bò ra ngoài để gây 
hại. Những vết tổn thương này làm giảm đáng kể giá trị của trái và tạo 
điều kiện để nấm bệnh xâm nhập và phát triển.
- Biện
 pháp phòng trừ: Luôn giữ vườn dâu thông thoáng, tránh ẩm độ không khí 
cao trên ruộng. Trong quá trình canh tác tỉa lá, thu trái nếu phát hiện 
sên, nhớt phải thu bắt. Thu gom toàn bộ gạch, đá…trên ruộng để hạn chế 
nơi cư trú của các loài sên nhớt. Sử dụng can nhựa có hòa các chất như 
bả bia hoặc sữa chua để bẫy sên nhớt trên vườn dâu. 
Hiện nay, chưa có thuốc BVTV đăng ký để trừ sên nhớt hại dâu tây.
Phần IV. Bệnh hại và biện pháp phòng trừ:
1. Bệnh rối loạn sinh lý trên cây dâu tây:
a.
 Thời tiết: Nếu trời lạnh nhị hoa sẽ bị chết dẫn đến hoa có màu nâu, nếu
 thời tiết quá lạnh hoa sẽ bị chết, một số hoa đã thụ phấn sống sót làm 
cho hoa bị biến dạng. Vào mùa lạnh, khi nhiệt độ quá thấp, tế bào bị 
đông đá, phần gốc hóa nâu, cây sinh trường kém và mẫn cảm với sâu bệnh.
b. Cường độ sáng cao, tế bào sẽ bị chết, trên lá có những dấu hình tròn.
c.
 Mưa đá gây dập lá, hoa, quả, tạo cơ hội cho nấm bệnh xâm nhập, cây bị 
tổn thương lớn, tạo ra nhiều vết nâu trên lá do cây bị xước.
d. Rối loạn dinh dưỡng:
-
 Đạm: Lúc đầu cây đầu cần nhu cầu đạm rất lớn, nếu thiếu đạm lá, quả sẽ 
nhỏ, cây cho ra ít ngó, lá già chuyển sang màu cam hoặc đỏ, là non nhỏ 
và có màu xanh nhạt. Thừa đạm làm giảm chất lượng của quả, cây dễ bị 
nhiễm bệnh.
Phân tích mẫu đất và dựa vào tình hình sinh trưởng, triệu chứng của cây để điều chỉnh đạm cho phù hợp.
- Kali: Cây thiếu kali là bị héo, lá già bị khô, quả dễ bị thối. 
Dùng
 Bicarbonate kali phun lên là có thể phòng ngừa bệnh và cung cấp thêm 
kali cho cây; Cung cấp thường xuyên phân kali cho cây như KNO3, K2SO4.
-
 Boron: Thiếu Bo là một trong những nguyên nhân dẫn đến trái dâu nhỏ hơn
 bình thường và dị dạng vì một vài chỗ trên trái bị teo lại và không 
phát triển. Mùi vị của trái gần như bình thường nhưng không có giá trị 
về mặt kinh tế.
 Vi lượng Bo rất quan trọng trong quá trình thụ phấn. Khi một hay nhiều 
hoa cái không được thụ phấn thì mô quả ở chỗ đó sẽ không phát triển và 
làm cho trái bị dị dạng. Boron có chức năng quan trọng đối với bộ rễ, vì
 vậy thiếu hụt Boron có thể làm cho cây dâu không hấp thu tốt các chất 
dinh dưỡng.
-
 Canxi: Khi lá còn non và chưa trải ra, đầu mút của lá đã bị hoại tử và 
khô, vì vậy khi lá lớn lên đầu mút bị xoắn lại nhưng những phần khác của
 lá vẫn phát triển bình thường khỏe mạnh. Những cây dâu phát triển quá 
nhanh thường gây cản trở cho việc hấp thu canxi từ đất, mặt dù lượng 
canxi trong đất rất dồi dào. Khí hậu khô, lạnh và nhiều mây gây cản trở 
rất nhiều đến việc hấp thụ canxi của cây.
-
 Thuốc trừ cỏ: Dùng thuốc trừ cỏ không đúng thuốc, đúng liều cây sẽ bị 
chết, nên dùng thuốc trừ cỏ có chọn lọc, thuốc tiền nảy mầm hoặc hậu nảy
 mầm. 
e. Bệnh bạch tạng (Physiological)
-
 Triệu chứng: khi trái dâu chin, trên trái dâu xuất hiện những mảng màu 
trắng, làm giảm giá trị thẩm mỹ và hương vị dâu. Hơn thế nữa những mảng 
trắng làm tăng nguy cơ xâm nhập của nấm gây thối trái.
-
 Nguyên nhân: Nguồn gốc của loại bệnh này có thể liên quan đến sự sinh 
trưởng dinh dưỡng quá mạnh và hàm lượng đạm quá cao cùng với điều kiện 
thời tiết ẩm thấp và trời nhiều mây, u ám. 
2. Các loại bệnh hại:
a. Bệnh xì mủ lá: (Xanthomonas fragaria)
-
 Triệu chứng: Vết bệnh là những đốm nhỏ sũng nước ban đầu xuất hiện dưới
 bề mặt lá. Lá có màu xanh tái khi đưa ra ánh sáng mặt trời. Sau đó các 
lá bị bệnh có thể bị khô héo và chết.
Quá
 trình nhiễm bệnh: Vi khuẩn lan từ cây này sang cây khác, từ lá già sang
 lá non do sự bắn toé nước khi trời mưa hoặc do tưới tiêu. Vi khuẩn xâm 
nhập qua cửa khí khổng của lá. Để nhận biết bệnh, vào sáng sớm lật mặt 
lá lên, ta có thể nhìn thấy chất dịch màu trắng như mủ chảy ra từ vết 
bệnh. Bệnh gây hại các giai đoạn sinh trưởng của cây.
- Biện pháp phòng trừ: Sử dụng cây giống từ những vườn ươm sạch bệnh. 
Sau
 khi đã ngắt tỉa những lá bị bệnh phải tiến hành thu gom để tiêu huỷ 
hoặc đốt, chôn xa ruộng dâu để diệt trừ triệt để những mầm bệnh còn sót 
lại trên đồng ruộng.
Hạn
 chế sử dụng hệ thống tưới phun mưa, sử dụng lớp phủ rơm cỏ khô để hạn 
chế sự bắn toé nước khi trời mưa, giữ cho ruộng dâu luôn khô ráo và có 
phương pháp tưới hợp lý (nếu có điều kiện nên áp dụng hệ thống tưới nhỏ 
giọt).
Nếu
 thực hiện một cách nghiêm túc các biện pháp trên ta có thể khống chế 
bệnh một cách dễ dàng, ngay cả trong trường hợp cây bị nhiễm bệnh nặng.
b. Bệnh đốm đỏ: (Mycosphaerella fragariae)
-
 Triệu chứng: Ban đầu trên lá xuất hiện những đốm tròn màu tía, có thể 
nhìn thấy trên bề mặt lá. Đốm tròn lan rộng từ 3-6mm. Ở trung tâm đốm có
 màu xám trắng, hoại tử, có quầng màu tím bao quanh đốm bệnh. Ta có thể 
nhìn thấy những đốm đỏ ở mặt dưới của lá nhưng màu nhạt hơn. Bệnh gây 
hại các giai đoạn sinh trưởng của cây.
Quá
 trình nhiễm bệnh: Những bào tử trưởng thành gây hại ở cây bệnh có thể 
lây qua cây mới do sự bắn toé nước khi tưới phun mưa hoặc khi trời mưa 
to. Khí hậu ấm và ẩm thuận lợi cho bệnh đốm đỏ phát triển.
- Biện pháp phòng trừ: Tỉa các phần bị bệnh và bị chết của cây, tiêu huỷ chúng bằng cách đốt hoặc chôn ở xa ruộng dâu. 
Dùng
 cỏ khô phủ đất để giảm sự bắn toé nước khi trời mưa nặng hạt. Tránh làm
 bắn toé nước khi dùng hệ thống tưới phun mưa. Tưới nhỏ giọt là biện 
pháp tốt để kiểm soát bệnh này.
c. Bệnh phấn trắng: (Sphaerotheca macularis)
-
 Triệu chứng: Ban đầu vết bệnh xuất hiện một lớp bột trắng, ta có thể 
nhìn thấy sau mặt lá, nhưng trên mặt lá thân, hoa, và trái cũng có thể 
bị nhiễm bệnh. Lá bệnh có khuynh hướng cuốn tròn lên phía trên và để lộ 
sau mặt lá một lớp bột màu trắng. Những vùng bị nhiễm bệnh thường sẽ héo
 khô và chết.
-
 Quá trình nhiễm bệnh: Những vùng bị nhiễm bệnh có thể phân tán một số 
lượng lớn mầm bệnh và theo gió và lây lan qua những cây khoẻ mạnh. 
Nấm
 tự hình thành không phụ thuộc vào ẩm độ, ngay cả trong điều kiện khô 
ráo, nấm vẫn có thể xuất hiện. Loại nấm này thường gặp nhiều ở nhà kính 
và dàn che nilon hơn là canh tác ngoài trời. Nấm phấn trắng lây lan rất 
nhanh và gây thất thu lớn đến sản lượng dâu và chất lượng trái. Bệnh gây
 hại các giai đoạn sinh trưởng của cây nhưng ảnh hưởng nhiều ở thời kỳ 
cây đã ra hoa, kết trái.
-
 Biện pháp phòng trừ: Vệ sinh đồng ruộng, ngắt tỉa thường xuyên các thân
 lá bị bệnh đem tiêu huỷ ở xa ruộng. Sử dụng nguồn giống sạch bệnh, luân
 canh với các cây trồng không phải là ký chủ của bệnh phấn trắng.
Dàn che dâu phải cao, thông gió, lên luống cao tránh úng vào mùa mưa.
Không trồng mật độ dày, tăng cường phân kali cho cây.
d. Bệnh mốc xám: Thối trái do Botrytis cinerea
-
 Triệu chứng: Nấm Botrytis chủ yếu xuất hiện ở giai đoạn quả chín, trong
 điều kiện ẩm ướt bệnh có thể gây hại nghiêm trọng. Biểu hiện đầu tiên 
là những đốm nâu sáng xuất hiện, sau đó lan rộng cả trái và phủ một lớp 
mốc xám.
Hoa
 và trái non cũng có thể bị nhiễm bệnh và làm cho trái bị khô. Nhiệt độ 
tích trữ trái dâu đã thu hoạch càng cao thì mầm bệnh nhanh chóng lây 
lan.
-
 Quá trình nhiễm bệnh: Mầm bệnh có thể xuất phát từ lá, trái bị nhiễm 
bệnh còn xót lại trên ruộng và lây lan bởi gió, ngoài ra mầm bệnh cũng 
có thể đến từ bên ngoài ruộng nhưng điều đó không quan trọng. 
Bệnh mốc xám phát triển rất mạnh trong điều kiện ẩm độ không khí cao và bề mặt luống ẩm ướt trong điều kiện thời tiết mùa mưa.
-
 Biện pháp phòng trừ. Thu dọn tất cả các tàn dư của cây bệnh đốt hoặc 
chôn xa đồng ruộng. Sử dụng màn phủ bằng rơm hoặc lưới để ngăn trái 
không tiếp xúc với đất trồng hoặc sự ẩm ướt.
Chọn
 đất trồng cao ráo, thoát nước tốt, lên luống cao. Bón cân đối NPK, tăng
 cường Kali trong vụ mưa. Luân canh và xử lý đất trước khi trồng.
Hạn
 chế sử dụng hệ thống tưới phun mưa, không tưới vào buổi giữa trưa hoặc 
xế chiều vì thời gian này duy trì sự ẩm ướt sẽ kéo dài. Giữ cho bề mặt 
luống dâu luôn được khô ráo. Trái đã thu hoạch nên bảo quản ở nhiệt độ 
2-40C để ngăn chặn sự sinh trưởng của nấm bệnh.
Lưu
 ý: Trong thời gian ẩm độ đất và ẩm độ không khí cao phải rút ngắn thời 
gian giữa 2 lần phun từ 3-4 ngày xử lý 1 lần mới có khả năng hạn chế 
được bệnh. Phun kỹ vào các chùm trái, giai đoạn hoa nở rộ tránh phun xịt
 thuốc với nồng độ cao sẽ làm trái dị dạng. Trong vùng đã bị kháng thuốc
 thì phải thay đổi và sử dụng luân phiên các loại thuốc trừ nấm khác 
nhau. Dưới điều kiện mưa nhiều và kéo dài thì nấm bệnh rất khó kiểm 
soát.
e. Bệnh cao su: Thối trái do Phytophthora cactorum
-
 Triệu chứng: Cả trái non và trái chín đều bị biến màu. Trái xanh dễ bị 
cứng và chuyển sang màu nâu. Trái già chuyển sang màu trắng tái, màu đỏ 
hoặc hơi nâu và hơi mềm. Trái bị bệnh trở nên khô, teo nhỏ lại và dai 
như cao su. 
Triệu chứng đặc biệt của bệnh này là trái bị mất hương, vị có mùi khó chịu. Trái bị bệnh có mùi dầu nhớt xe và có vị đắng.
-
 Quá trình nhiễm bệnh: Nấm có trong đất và xâm nhập lên trái do sự bắn 
tóe nước khi trời mưa hoặc tưới nước hoặc do trái tiếp xúc với đất 
trồng. 
Bệnh lây lan và phát triển nhanh vào mùa mưa và ẩm độ không khí cao.
-
 Biện pháp phòng trừ: Để kiểm soát bệnh này, cần phải kiểm soát lượng 
nước. Cách ngăn chặn, phòng ngừa rẻ tiền và hiệu quả là dùng màng phủ. 
Màng phủ cỏ khô và rơm là tốt nhất. Nhưng lớp màn phủ phải đủ dày để 
trái không bị tiếp xúc với đất trồng và không bị ảnh hưởng bởi sự bắn 
tóe nước. Biện pháp tốt nhất là phủ một lớp cỏ hoặc rơm khô lên bề mặt 
đất trồng sau đó phủ một lớp lưới lên trên lớp cỏ. Biện pháp này giúp 
cho trái dâu được khô ráo, không những ngăn ngừa được bệnh cao su mà còn
 ngăn ngừa được nhiều bệnh khác.
g. Bệnh đốm đen (Colletotrichum acutatum)
-
 Triệu chứng: Khi trái chín, xuất hiện những đốm tròn có màu nâu. Những 
đốm tròn sạm màu và sau đó biến thành màu đen hoàn toàn. Nếu trái bị 
nhiễm bệnh trước khi chín thì toàn bộ trái sẽ bị đen và héo. 
Trong
 quá trình vận chuyển, tích trữ, nguồn bệnh vẫn tiếp tục lây lan làm cho
 trái bị hư hỏng nặng hơn. Đây là vấn đề đáng quan tâm.
-
 Quá trình nhiễm bệnh: Những ngó dâu đã bị nhiễm bệnh ngay từ lúc trồng 
thường không thấy xuất hiện triệu chứng bệnh. Trong ruộng dâu, nấm bệnh 
có thể lây lan do sự bắn tóe nước khi tưới hoặc do trời mưa nặng hạt 
hoặc do quá trình chăm sóc cắt tỉa và thu hái. Cây có quá nhiều đạm cũng
 rất dễ nhiễm bệnh.
h. Bệnh thối đen rễ dâu tây
- 
Triệu chứng gây hại: Thường bắt đầu ngay trong năm đầu tiên cho quả. Các
 tổn thương sẽ biểu hiện rõ nhất trong khu vực đất thấp hoặc nơi có sự 
thoát nước kém. Cây bị bệnh tăng trưởng kém, thiếu sức sống, còi cọc. 
Cây sẽ bị khủng hoảng nước do nhu cầu nước trong quá trình sinh trưởng 
cao, trong hoặc sau khi cho quả rộ, hay bị hạn hán. 
Trên lá: Lúc đầu lá bị đỏ như luộc từ ngoài rìa lá vào sau khô quắt, rũ làm cây héo hết lá.
Rễ bị thâm đen, ở giữa mạch lybe của trung trụ bị thối lan rộng dần.
Thân
 bị bệnh cắt ngang thân phần gỗ lúc đầu chuyển sang màu nâu vàng, khi 
cây héo và chết vết thâm lan rộng hết phần lõi và chuyển sang nâu đậm.
Những cây bị bệnh thối rễ thường tạo điều kiện cho các loại nấm bệnh khác phát triển và gây hại cuống lá, lá và quả.
-
 Nguyên nhân, điều kiện phát sinh phát triển của bệnh: Thối đen rễ là do
 sự tương tác phức tạp của nấm, tuyến trùng và các yếu tố môi trường gây
 nên. Những nghiên cứu của Cục BVTV Nhật Bản từ tháng 5/1973 đến tháng 
12/1974 cho thấy một số loại nấm có liên quan đến căn bệnh bao gồm Rhizoctonia spp, Pythium spp. va Fusarium spp.
 Khi rễ cây có mặt tuyến trùng gây tổn thương thì bệnh thường nặng hơn. 
Bệnh thường xảy ra ở các vùng thấp, dễ ngập nước, trên đất đầm hoặc khi 
chất hữu cơ thấp.
Thường
 sẽ có một hoặc nhiều chủng loại nấm tấn công gây hại. Kết quả bước đầu 
phân tích, tác nhân gây hại tại Đà Lạt là loại nấm Pythium spp và Fusarium spp.
 Những yếu tố môi trường thuận lợi cho thối đen gốc bao gồm đất thoát 
nước kém, tổn thương do nhiệt độ thấp, sự mất cân bằng dinh dưỡng và ảnh
 hưởng của thuốc diệt cỏ, bệnh sẽ trở nên phức tạp và khó kiểm soát.
Ghi chú:
 Thực hiện biện pháp phòng trừ tổng hợp đạt kết quả cao hơn sử dụng đơn 
lẻ phương pháp hóa học. Chỉ sử dụng các loại thuốc BVTV có tên trong 
Danh mục thuốc BVTV được phép sản xuất, kinh doanh và sử dụng tại Việt 
Nam.
Phần V. Phòng trừ dịch hại tổng hợp
Áp dụng các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp IPM
1.
 Biện pháp canh tác kỹ thuật: Vệ sinh đồng ruộng sạch sẽ, cắt tỉa các lá
 già vàng úa tiêu hủy, luân canh cây trồng khác họ, chọn giống khỏe, sức
 đề kháng sâu bệnh tốt, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Bón
 phân cân đối và hợp lý, tăng cường sử dụng phân hữu cơ sinh học, vi 
sinh. Chăm sóc theo yêu cầu sinh lý của cây. Kiểm tra đồng ruộng phát 
hiện và kịp thời có biện pháp quản lý thích hợp đối với sâu, bệnh
Thực hiện ghi chép nhật ký đồng ruộng
2.
 Biện pháp sinh học:  Hạn chế sử dụng các loại thuốc hóa học có độ độc 
cao để bảo vệ các loài ong ký sinh của ruồi đục lá, các loài thiên địch 
bắt mồi như nhện, bọ đuôi kìm…Sử dụng các chế phẩm sinh học trừ sâu bệnh
3.
 Biện pháp vật lý: Sử dụng bẫy màu vàng, bôi các chất bám dính: dùng 
nhựa thông (Colophan) nấu trộn với nhớt xe theo tỉ lệ 4/6,  bẫy 
Pheromone dẫn dụ côn trùng
Có
 thể sử dụng lưới ruồi cao từ 1,5-1,8m che chắn xung quanh vườn hạn chế 
ruồi đục lá, sâu, côn trùng gây hại bay từ vườn khác sang 
4.
 Biện pháp hóa học: Sử dụng thuốc phải cân nhắc kỹ theo nguyên tắc 4 
đúng (đúng lúc, đúng cách, đúng liều lượng, đúng thuốc) và nhớ đọc kỹ 
hướng dẫn sử dụng thuốc trước khi dùng. Phun khi bệnh chớm xuất hiện 
Chỉ sử dụng thuốc BVTV khi thật cần thiết và theo các yêu cầu sau:
+ Không sử dụng loại thuốc cấm sử dụng cho rau
+ Chọn các thuốc có hàm lượng hoạt chất thấp, ít độc hại với thiên địch, các động vật khác và con người
+ Ưu tiên sử dụng các thuốc sinh học (thuốc vi sinh và thảo mộc)
Phần VI. Thu hoạch, phân loại và xử lý bảo quản sau thu hoạch:
 Dâu tây không chín thêm sau khi thu hoạch, do đó, để đạt chất lượng tốt
 nhất nên thu hoạch dâu tây khi quả đã chín (trái đã chuyển sang màu đỏ 
đều).
 Phân loại và đóng gói dâu tây theo yêu cầu của khách hàng, tốt nhất 
đóng dâu trong các hộp đặc biệt, tránh để các trái dâu tiếp xúc và cọ 
xát lẫn nhau.
 Trái dâu tây không bảo quản được lâu và chỉ nên bảo quản trong vài 
ngày, khi thu hoạch xong tốt nhất phải bảo quản và vận chuyển trong điều
 kiện lạnh.



